Lợi dụng vấn đề nhân quyền để chống phá cách mạng Việt Nam là
thủ đoạn quen thuộc của các thế lực thù địch. Càng gần đến Đại hội XII của Đảng
họ lại càng ra sức chống phá quyết liệt hơn. Thế nhưng, họ cố tình quên rằng
chính họ đã gây nên những nghịch lý về nhân quyền ở Việt Nam và quyền con người
ở Việt Nam có được chính là do Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam mang
lại.
Không phủ nhận
rằng về phương diện lịch sử, chế định quyền con người ra đời từ các cuộc cách
mạng dân chủ tư sản. Ngày nay, khi nói về lịch sử chế định quyền con người,
người ta thường nhắc tới “Luật về các quyền của Anh” năm 1689, “Tuyên ngôn độc
lập” năm 1776 và Hiến pháp bổ sung năm 1787 của Mỹ, “Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền” năm 1789 của Pháp. Trong đó, hai văn kiện của Mỹ và Pháp được Chủ
tịch Hồ Chí Minh trích dẫn trong Bản “Tuyên ngôn độc lập” của Việt Nam năm 1945.
Thế nhưng, từ khi
xuất hiện chủ nghĩa đế quốc (vào thế kỷ XIX) với các cuộc chiến tranh xâm lược,
mở rộng thị trường…, các chính quyền thực dân đã không thực hiện các giá trị tự
do, bình đẳng, bác ái với các dân tộc thuộc địa. Trái lại, chính các cuộc xâm
lược đã gây ra không biết bao nhiêu đau khổ cho các dân tộc bằng sự áp đặt chế
độ thuộc địa, đồng thời duy trì chế độ phong kiến bản địa hà khắc để bóc lột lao
động và cướp bóc tài nguyên của các dân tộc bị áp bức. Ở nước ta, đó chính là
cuộc xâm lược và các chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp từ năm
1858 đến năm 1954. Hậu quả của cái mà họ nói “khai hóa” cho nhân dân Việt Nam
là: vào cuối năm 1944, đầu năm 1945 trên địa bàn từ tỉnh Quảng Trị trở ra Bắc
Bộ đã diễn ra nạn đói khủng khiếp, đau thương, nhất là tỉnh Thái Bình[1]. Theo
nhiều nghiên cứu, riêng từ tháng 01 đến tháng 5-1945, số người chết đói lên đến
trên 2 triệu người, gần bằng 10% dân số Việt Nam lúc đó! Đây là nghịch
lý đầu tiên về nhân quyền diễn ra ở Việt Nam.
Sau khi nhân dân
ta giành được độc lập, thực dân Pháp và sau đó là đế quốc Mỹ đã tiến hành hai
cuộc chiến tranh xâm lược hòng xóa bỏ thành quả Cách mạng Tháng Tám do Đảng
cộng sản Việt Nam lãnh đạo, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến Việt Nam thành
hai quốc gia riêng biệt. Đặc biệt, trong cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc
Mỹ - quân đội Mỹ đã sử dụng vũ khí mang tính hủy diệt. Họ dùng máy bay B52 ném
bom vào thành phố, các xóm làng bình yên, hòng đưa “miền Bắc Việt Nam trở về
thời kỳ đồ đá”. Trong 10 năm, từ 1961 đến 1971, quân đội Mỹ đã rải hơn 18,2
triệu gallon chất độc da cam với thành phần chứa dioxin xuống hơn 10% diện tích
đất ở miền Nam Việt Nam, làm nhiễm độc và tàn phá hàng triệu héc-ta rừng và đất
nông nghiệp. Ngoài tác hại cho môi trường, hóa chất này còn gây hậu quả trầm
trọng cho tính mạng, sức khỏe của nhiều người cả Việt Nam và Mỹ, thậm chí tới
các thế hệ sinh ra sau chiến tranh. Hiện nay, ước tính có khoảng 4,8 triệu
người Việt Nam bị nhiễm chất độc da cam/dioxin, hàng trăm nghìn người trong số
đó đã qua đời. Hàng triệu người và cả con cháu của họ đang phải sống trong bệnh
tật, nghèo khó do di chứng của chất độc da cam, v.v. Cần phải nhắc lại: sau khi
Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất (tháng 4-1975), các thế
lực thù địch trong và ngoài nước lợi dụng vấn đề nhân quyền để bao vây, cấm vận
và thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” gây ra không biết bao nhiêu khó
khăn cho công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng đất nước của nhân
dân ta. Đây là nghịch lý thứ hai về nhân quyền diễn ra ở Việt Nam.
Sau sự kiện Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang thăm chính thức Hoa Kỳ (tháng 7-2013), với tinh thần
gác lại quá khứ, hướng tới tương lai, hai quốc gia Việt Nam - Hoa Kỳ thiết lập
quan hệ đối tác toàn diện, là bước khởi đầu cho sự hợp tác giữa hai nước; đồng
thời, mở ra con đường giải quyết những vấn đề bất đồng về nhân quyền giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ. Song, trước chuyến thăm Hoa Kỳ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
(tháng 7-2015), một số người “bất đồng chính kiến” còn lợi dụng tư duy cũ về sự
khác biệt giữa hai chế độ để “củng cố” thêm rào cản nhân quyền giữa hai quốc
gia với tham vọng gây thêm khó khăn cho Việt Nam. Họ “gợi ý” cho chính quyền
của Tổng thống B. Obama rằng, “Việt Nam muốn được Hoa Kỳ cho tham gia Hiệp định
đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP)” thì phải thay đổi chế độ xã
hội, phải sửa đổi pháp luật, phải thả tất cả “tù nhân lương tâm”, “tự do ngôn
luận, cho ra báo chí tư nhân”, cho “lập hội, đoàn độc lập”. Những việc làm phi
lý nêu trên của họ thể hiện sự thù địch và hơn thế vi phạm nhân quyền đối với
một quốc gia, dân tộc, đồng thời cản trở sự phát triển quan hệ hợp tác giữa Hoa
Kỳ - Việt Nam, trong khi thực tế đang có sự tiến triển tích cực.
Những năm qua, Hoa
Kỳ đã trở thành đối tác quan trọng của Việt Nam, trước hết trong lĩnh vực kinh
tế: xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng trưởng liên tục. Nếu năm 2000, Việt Nam
xuất khẩu sang Mỹ đạt khoảng 800 triệu USD thì đến năm 2014, con số này đã là
29,4 tỷ USD, tăng gần 36 lần. Trong điều kiện hai nước đã trở thành đối tác
toàn diện, nhiều vấn đề nhân quyền đã và sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Hoa kỳ
đã và đang triển khai nhiều hoạt động, như: rà phá bom mìn, tẩy rửa chất độc
hóa học, giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam ở Việt Nam, v.v. Việt Nam cũng làm
nhiều việc, như: phối hợp với đối tác Hoa Kỳ trong những hoạt động trên; tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ trở thành nhà đầu tư lớn nhất vào Việt
Nam, v.v. Như vậy, trong quan hệ chính thức, cấp quốc gia, sự khác biệt về tư
duy chính trị (trong đó bao hàm chế độ xã hội) trong quan hệ đối ngoại giữa hai
quốc gia đã có những thay đổi tích cực bước đầu (gắn với chế độ chính trị). Tất
nhiên, những khác biệt về vấn đề này giữa hai quốc gia cần tiếp tục được khắc
phục dù vẫn biết không thể trong “một sớm một chiều”, nhưng chí ít không là rào
cản chính trong sự phát triển quan hệ giữa hai nước.
Nói vậy để thấy,
nghịch lý về nhân quyền không phải không còn tồn tại đối với Việt Nam. Bởi,
nó xuất phát từ những chủ thể phi chính thức trong quan hệ đối ngoại và cả ở
không gian mạng. Nghịch lý đó do một số người cực hữu trong Hạ nghị viện Hoa Kỳ
và một số người tự xem là “người bất đồng chính kiến” ở trong và ngoài nước gây
ra. Gần đây (ngày 18-6-2015), tại Hạ nghị viện Hoa Kỳ đã diễn ra cuộc “điều trần
về nhân quyền, tôn giáo Việt Nam” do Hạ nghĩ sỹ Chris Smith, Tiểu Ban Nhân
Quyền Hạ viện Hoa Kỳ chủ trì. Những nội dung được “điều trần” nhằm chuẩn bị cho
cái gọi là “Dự luật nhân quyền cho Việt Nam” chỉ là những thông tin sai lệch về
tình hình thực tiễn ở Việt Nam, do những trang mạng chống Cộng cung cấp. Ở
trong nước, những người “bất đồng chính kiến” ra sức xuyên tạc, bôi nhọ chế độ
xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Điệp khúc mà họ thường rêu rao là:
chế độ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là chế độ “độc tài
toàn trị”. Theo họ, những người vi phạm pháp luật bị xử lý là “dân oan”, là
“người bất đồng chính kiến”, người “chống tham nhũng”, “người yêu nước”, v.v.
Thật xấu hổ khi họ không tự hỏi, trên thế giới có quốc gia nào không xử lý
những kẻ vi phạm pháp luật? Mục tiêu của họ đã rõ ràng là lợi dụng vấn đề nhân
quyền để chống Đảng, chế độ. Họ cố tình ngụy biện cho giải pháp mà họ đưa ra là
chuyển chế độ “độc tài toàn trị của Đảng Cộng sản Việt Nam” sang chế độ “dân
chủ, dân tộc”.
Ai cũng biết kinh
tế Việt Nam hiện nay còn gặp khó khăn cả về thị trường nhập khẩu và xuất khẩu
hàng hóa. Điều này đã ảnh hưởng tới công ăn, việc làm, thu nhập của người lao
động. Như vậy, việc cố tình gây khó khăn cho Việt Nam giải quyết những vấn đề
kinh tế nói trên, tác động tiêu cực đến đời sống của người lao động chẳng phải
là một “nghịch lý về nhân quyền” được những người “bất đồng chính kiến” tạo ra
đó sao?
Tuy nhiên, những
“nghịch lý về nhân quyền” nói trên đã không có cơ hội để tồn tại. Bởi, nền dân
chủ của Việt Nam đang đi vào cuộc sống với những sự kiện sống động. Chẳng hạn:
chế độ bảo hiểm, tiền lương của người lao động, cơ chế dân chủ, nhất là vai trò
của Công đoàn được bảo đảm. Tháng 6-2015, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Nghị
quyết về việc thực hiện chính sách hưởng bảo hiểm xã hội một lần sau một năm
nghỉ việc theo kiến nghị của người lao động. Theo đó, Nghị quyết của Quốc hội
cho phép kéo dài việc thực hiện chính sách hưởng bảo hiểm xã hội một lần đối
với người lao động sau một năm nghỉ việc, nếu không tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội…,
theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 55 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006.
Hoặc gần đây, là vấn đề về mức tăng lương tối thiểu, nhằm bảo vệ quyền lợi của
người lao động theo cơ chế “ba bên” của chế độ ta. Rõ nhất là, mới đây Đảng ta
đã đưa ra lấy ý kiến toàn dân về các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng; qua
đó, tiếp thu những đóng góp hợp lý của nhân dân để Đảng bổ sung, hoàn thiện
đường lối lãnh đạo trong nhiệm kỳ tới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước, người dân Việt Nam ngày càng được tham gia sâu rộng hơn vào đời sống
chính trị - xã hội của đất nước.
Sự thực trên minh
chứng rõ rằng: Đảng Cộng sản, Nhà nước Việt Nam đã và đang phấn đấu nỗ lực hết
mình để bảo đảm quyền con người ngày một tốt hơn. Thực tiễn đời sống xã hội ở
nước ta đã khẳng định điều đó, không có chỗ để những kẻ lợi dụng vấn đề “nhân
quyền” lải nhải những điều phi lý và vô nghĩa về quyền con người ở Việt Nam./.
BẮC HÀ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét