Thứ Tư, 24 tháng 8, 2016

THỦ ĐOẠN ĐÊ HÈN CỦA CÁC "NHÀ DÂN CHỦ"

           Chống phá cách mạng Việt Nam, trong đó tập trung xóa bỏ vai trò lãnh đạo của đảng và chế độ XHCN ở nước ta là mục tiêu nhất quán của các thế lực phản động, của “nhà dân chủ”. Biết là thế, nhưng mọi người vẫn không khỏi lạ về những thủ đoạn lố bịch, hèn hạ đến nực cười mà họ tiến hành, nhất là vào những thời điểm chúng ta tổ chức sự kiện lớn của đất nước.
            Theo kế hạch, năm nay đại hội Đảng các cấp sẽ được tiến hành và đến năm 2016 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng sẽ được tổ chức. Đây là một sự kiện chính trị trọng đại của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Song, các thế lực thù địch, phản động, các “nhà dân chủ” cũng coi đây là cơ hội, là thời điểm thích hợp nhất để chống phá bằng mọi hình thức. Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do báo chí, thời gian gần đây họ tung lên các trang mạng xã hội hàng loạt bài viết phê phán quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Điều đáng chú ý, để đạt được mục đích đen tối, họ dùng nhiều thủ đoạn, kể cả những thủ đoạn đê hèn, bôi nhọ một số đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước ta hòng gây chia rẽ nội bộ, làm giảm niềm tin của nhân dân đối với vai trò lãnh đạo của Đảng. Trên một số blog, họ vẽ ra những chuyện gây “sốc” về đồng chí lãnh đạo này của Đảng bị đầu độc do “đấu đá nội bộ”; đồng chí lãnh đạo kia có “khối tài sản khổng lồ”, biệt thự, xe hơi.v.v. Phải thừa nhận họ thật siêu trí tưởng tượng. Nhưng cũng phải nói rằng, những thông tin kiểu này ít, nhiều gây bán tín, bán nghi trong dư luận xã hội. Bởi, các “nhà dân chủ” đã dùng thủ đoạn hết sức tinh vi, lợi dụng một số sự việc đang diễn ra để gán ghép những thông tin khó kiểm chứng, nhằm “đổi trắng thay đen”, làm cho người đọc, thoạt đầu khó phân biệt thật hay giả. Thế nhưng, nếu người đọc suy nghĩ kỹ và có sự vào cuộc của các cơ quan chức năng, thì chân tướng của họ sẽ bị lật tẩy. Nhân trên mạng đang rộ tin đồn về chuyện cố lãnh đạo Nhà nước Palestine - I.Arafat bị kẻ thù đầu độc bằng chất phóng xạ, cùng với thời điểm một cán bộ cao cấp của Đảng ta phải ra nước ngoài chữa bệnh, các “nhà dân chủ” liền tung tin Đồng chí này cũng bị đầu độc bằng chất phóng xạ (!) Song, sự việc đã lộ nguyên hình là ngụy tạo, khi Đồng chí đó trở về nước, Ban Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe Trung ương tổ chức họp báo công bố rõ về bệnh tình của Đồng chí đó. Còn câu chuyện về hàng loạt biệt thự, xe hơi đắt tiền,… thì được họ dày công dựng lên, tung ra trong bối cảnh Đảng, Nhà nước ta đang đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng và trong xã hội đang nóng lên về chuyện nhà cửa, đất đai của một số cán bộ về hưu. Họ sử dụng chiêu bài “trắng, đen - thật, giả lẫn lộn”, dùng hình ảnh của các dự án bất động sản và quảng cáo của các hãng xe để gán ghép, chú thích theo ý đồ thâm độc của họ.
            Ở một góc độ khác, họ dùng cách tập hợp thông tin phản ánh các vụ việc tiêu cực trên báo chí rồi cố tình nhào nặn để mọi người hiểu theo nghĩa khác, nhằm chống phá Đảng ta. Họ lấy những tiêu cực xảy ra ở một số địa phương, bộ, ngành, rồi tô đậm, phóng đại lên để biến toàn xã hội thành một bức tranh u ám,… từ đó lớn tiếng phê phán, nói xấu Đảng, phủ nhận chế độ XHCN. Đặc biệt, từ hiện tượng một số cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, lợi dụng chức vụ, quyền hạn tham nhũng, họ khái quát thành bản chất của Đảng là tham nhũng; Đảng không còn xứng đáng lãnh đạo Nhà nước và xã hội (!)
            Như vậy là, với thái độ thù địch, định kiến, áp đặt và bằng cách “vơ đũa cả nắm”, họ đang mưu toan “dùng tay che cả mặt trời”. Thế nhưng, sự thật là chân lý. Không ai có thể xuyên tạc sự thật rồi trơ trẽn khẳng định đó là chân lý được. Cũng không thể chỉ với vài ba thủ đoạn đê hèn ấy mà các “nhà dân chủ” có thể xóa được hình ảnh về một đất nước Việt Nam hòa bình, thân thiện và phát triển đang thay da đổi thịt hằng ngày trong mắt bạn bè quốc tế. Dù có mưu ma chước quỷ đến mấy, họ cũng không thể phủ nhận được những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong 30 năm qua. Bởi một lẽ đơn giản: đó là sự thật. Nhân dân ta hiểu rõ rằng, đa số cán bộ, đảng viên của Đảng là những người tiền phong, gương mẫu, có phẩm chất và năng lực tốt, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới hiện nay. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên không xứng đáng với vị trí, vai trò của mình, tham nhũng, lãng phí, vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống,... gây dư luận xấu trong xã hội. Điều này, Đảng ta đã công khai nói rõ và đang quyết tâm khắc phục; tập trung chỉ đạo các cấp thực hiện tốt hệ thống giải pháp trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đã đề ra. Đồng thời, thành lập các cơ quan chức năng chuyên trách, tăng cường kiểm tra, thanh tra của Đảng và Nhà nước, phát huy vai trò của quần chúng nhân dân, các cơ quan báo chí; kiên quyết xử lý mọi hành vi phạm tội, bất kỳ ai vi phạm đều phải xử lý hoặc đưa ra xét xử theo đúng quy định của pháp luật,v.v. Trong ba năm qua, đã có nhiều cán bộ, đảng viên (có cả cán bộ cao cấp) vi phạm pháp luật bị xử lý nghiêm khắc, đúng quy định của luật pháp. Nhờ vậy, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí đạt được những kết quả tích cực, lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước được củng cố; hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành của các tổ chức đảng, chính quyền các cấp được nâng cao.
            Tuy nhiên, các “nhà dân chủ” vẫn cứ cố tình lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền như một chiêu bài để xuyên tạc và phủ nhận nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và chế độ XHCN ở Việt Nam. Họ rêu rao: chủ nghĩa Mác ­– Lê-nin đã lỗi thời; đường lối của Đảng ta sai lầm, không phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước; rằng: Đảng và Nhà nước Việt Nam độc tài, toàn trị, vi phạm dân chủ, nhân quyền,… làm cho kinh tế sa sút, văn hóa xuống cấp, xã hội ngột ngạt; độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ bị xâm phạm (!) Từ đó, họ khẳng định vấn đề mấu chốt là phải xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ XHCN, thực hiện “đa nguyên, đa đảng”, phát triển theo con đường TBCN thì đất nước mới giàu mạnh; dân chủ, nhân quyền mới được bảo đảm (!) Thật lố bịch, nực cười.
            Cần phải nhắc lại rằng, cái thứ lập luận ấy là hoàn toàn sai, xuyên tạc sự thật và chỉ để phục vụ cho các thế lực bất mãn, thù địch đối với đất nước Việt Nam. Còn đối với nhân dân ta, hơn ai hết, chúng ta hiểu rất rõ những thành quả to lớn, trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, dân chủ, nhân quyền,… mà biết bao thế hệ người Việt Nam phải hy sinh xương máu, mồ hôi và nước mắt mới có được. Nhân dân ta cũng hiểu rằng, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam, với nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mới tập hợp và lãnh đạo được toàn dân tộc đứng lên làm cách mạng, đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến; tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc thắng lợi, giành độc lập, thống nhất, để xây dựng đất nước văn minh, giàu mạnh, bảo đảm dân chủ, nhân quyền thực sự. Thực tiễn 85 năm qua chứng minh rằng, cùng với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn phấn đấu cho mục tiêu dân chủ, nhân quyền. Chính vì Đảng ta luôn coi dân chủ, nhân quyền là nội dung cơ bản trong đường lối, chủ trương, chính sách của mình, nên đã tập hợp và động viên được mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội chiến đấu, hy sinh cho thắng lợi của cách mạng. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, nếu Đảng không phát huy dân chủ và coi trọng nhân quyền, thì liệu có thể động viên và phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi thành phần kinh tế cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN được không? Trong điều kiện đất nước thực hiện hội nhập quốc tế và kinh tế thị trường định hướng XHCN, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta luôn thể hiện rõ quan điểm coi sức mạnh nội lực là nhân tố quyết định. Để làm được điều đó, Đảng ta khẳng định “con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực” của quá trình phát triển đất nước. Đồng thời, luôn xem dân chủ là chìa khóa để phát huy tiềm năng, trí tuệ con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bởi vậy, cùng với coi trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm tốt nhất việc thực thi dân chủ, nhân quyền, Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Luật và nhiều văn bản pháp lý đã ghi nhận, thể chế hóa các quyền, nghĩa vụ công dân, như: quyền sở hữu, quyền sử dụng tư liệu sản xuất, quyền tự do kinh doanh hợp pháp, quyền tự do thảo luận, tranh luận, quyền tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo, v.v.
            Riêng về tự do báo chí, chúng ta có cơ chế người phát ngôn của các bộ, ngành theo định kỳ, giải đáp các thắc mắc, câu hỏi của các nhà báo trong và ngoài nước. Hằng tháng, Chính phủ tổ chức họp báo sau phiên họp định kỳ, không chỉ có sự tham gia của Chánh văn phòng Chính phủ - Người phát ngôn của Chính phủ - mà còn có sự tham gia của hầu hết các bộ trưởng, sẵn sàng trả lời các câu hỏi của các nhà báo. Đài Truyền hình Việt Nam hằng tuần có chuyên mục “Dân hỏi bộ trưởng trả lời”, người dân gửi câu hỏi đến các bộ trưởng theo hòm thư điện tử được công khai trên truyền hình. Gần đây, Bộ Y tế có đường dây nóng để nhân dân kịp thời phản ánh tình hình hoạt động ở các bệnh viện đến lãnh đạo các viện và Bộ Y tế, giải quyết kịp thời thắc mắc của người dân, v.v. Những việc làm đó không thể hiện tinh thần dân chủ hay sao? Mặt khác, Việt Nam còn tham gia ký kết các Công ước quốc tế về quyền con người; đồng thời, không ngừng hoàn thiện các hành lang pháp lý để thực thi có hiệu quả trong thực tiễn.
            Trong lĩnh vực kinh tế, nơi các “nhà dân chủ” thường lớn tiếng công kích Đảng ta là mất dân chủ, phân biệt đối xử, thì vấn đề đó đã được thể hiện rất rõ. Đường lối của Đảng khẳng định: các thành phần kinh tế hoạt động đúng pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế đất nước; mọi thành phần kinh tếđều bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong cơ chế mới, mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi, được tạo điều kiện để phát triển; các lợi ích đều được coi trọng, lợi ích cá nhân không bị kỳ thị, mà là một trong những động lực mạnh mẽ để phát triển đất nước. Cùng với đó, chúng ta tăng cường mở cửa hội nhập quốc tế, không ngừng cải thiện môi trường kinh doanh, khuyến khích các đối tác nước ngoài đầu tư mở rộng sản xuất để phát huy tiềm năng, thế mạnh, xây dựng đất nước giàu mạnh. Nhờ vậy, trong điều kiện hết sức khó khăn, nhiều nước trên thế giới vẫn chìm sâu trong khủng hoảng, thì năm 2014, kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng là 5,98%, vượt xa các dự đoán trước đó; Việt Nam được đánh giá là nơi có môi trường an ninh, chính trị ổn định, đầu tư hấp dẫn, đang thu hút nhiều nhà đầu tư thế giới và khu vực,v.v.
            Trong một thế giới đầy biến động, việc giữ vững ổn định chính trị, tạo môi trường hòa bình để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, giữ vững độc lập, chủ quyền đất nước, là một thành tựu quan trọng. Có được điều đó, là nhờ Đảng ta có đường lối, chủ trương đúng đắn; nhân dân đoàn kết, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và quyết tâm đưa công cuộc đổi mới đi đến thắng lợi hoàn toàn. Mọi thủ đoạn đê hèn, xuyên tạc của các “nhà dân chủ” không thể đánh lừa được ai.
                                                                        VINH HIỂN


PHẢN BIỆN XÃ HỘI HAY PHẢN LỢI ÍCH CỦA DÂN TỘC

            Những năm qua, trên đất nước ta, các hoạt động phản biện, phản biện xã hội đã diễn ra khá sôi động và mang lại hiệu quả tích cực. Tuy nhiên, do nhận thức chưa đúng hoặc động cơ sai trái nên một số người hoặc nhóm người ở cả trong nước và nước ngoài đã mượn danh phản biện, phản biện xã hội để kích động, làm phức tạp tình hình, thậm chí là phản lại lợi ích của dân tộc.
            Phản biện xã hội (PBXH) là việc nêu ý kiến chưa đồng tình của nhân dân đối với những vấn đề thuộc chủ trương, chính sách, quyết định, dự án,... của nhà nước, các tổ chức, liên quan đến quyền lợi và đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Mục đích của PBXH là làm sáng tỏ bản chất của vấn đề, những ưu điểm, hạn chế, những vấn đề chưa hợp lý, bất cập của những chủ trương, chính sách, quyết định đó. Như vậy, bản chất của PBXH là thực hành dân chủ, góp phần bổ sung, sửa chữa những khiếm khuyết, sai lầm, đem lại những lợi ích chính đáng, hợp pháp, thúc đẩy sự phát triển của xã hội. PBXH có ý nghĩa chính trị sâu sắc, phản ánh mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân và hơn thế, nó thể hiện sâu sắc dân chủ XHCN, bản chất nhà nước pháp quyền XHCN - quyền lực thuộc về nhân dân.
            Nhận thức đầy đủ ý nghĩa, vai trò của PBXH, Đảng và Nhà nước ta luôn trân trọng lắng nghe và tiếp thu những ý kiến phản biện, PBXH của các tầng lớp nhân dân. Điều đó được thể hiện rõ trong quá trình xây dựng Hiến pháp, hệ thống luật, chính sách, v.v. Tuy nhiên, cùng với sự đóng góp chân thành có ý thức xây dựng của các tầng lớp nhân dân, thì một số kẻ đã lợi dụng PBXH để thực hiện âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ và nhân dân ta. Họ đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội và ra sức lợi dụng tự do ngôn luận, lợi dụng PBXH để tập hợp lực lượng chống đối chính trị, thúc đẩy sự đối kháng trong xã hội, tạo các lực lượng đối lập, từ “phản biện” đến phản đối và chống đối Đảng và Nhà nước ta. Âm mưu thâm độc của họ là bác bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh – nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN); tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN ở Việt Nam. Đặc biệt là trước và trong quá trình tổ chức Đại hội nhiệm kỳ của Đảng, các thế lực thù địch, phản động càng chống phá quyết liệt.
            Để đạt được những mục tiêu đó, khi dùng chiêu bài phản biện, PBXH, chúng cố tình gây nhiễu thông tin, làm cho nhân dân hiểu sai bản chất của vấn đề. Lực lượng tiến hành âm mưu này có cả trong nước và ngoài nước, bao gồm những phần tử bất mãn, thù địch, thậm chí có cả những nhà khoa học, chuyên gia có uy tín nhất định về một lĩnh vực nào đó. Các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài, điển hình như: “Liên minh Dân tộc Việt Nam” do Nguyễn Hữu Chánh cầm đầu; “Đảng Vì dân” do Nguyễn Công Bằng và Trịnh Thị Ngọc Anh cầm đầu, v.v. Ở trong nước, có một số tổ chức lên tiếng phụ họa, mạo danh PBXH đòi tranh luận về thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” với ngụy biện kệch cỡm rằng: đấy là con đường đúng đắn và tiến bộ duy nhất giúp Việt Nam phát triển. Họ rêu rao mang tính thách đố: “Sẵn sàng đối thoại thẳng thắn với Đảng để phản biện, chỉ ra sự sai lầm trong đường lối đi lên CNXH”. Rằng: “Từ nhiều năm nay, ĐCSVN dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng CNXH theo mô hình Xô-viết, được coi là dựa trên chủ nghĩa Mác – Lê-nin”, v.v. Với một thứ lý luận phiến diện, xa rời lịch sử và thiếu thực tiễn, họ ra sức lợi dụng PBXH để xuyên tạc, bóp méo sự thật, chống phá quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước ta. Đồng thời, họ cố tình không thấy một sự thật hiển nhiên là, con đường đi lên CNXH không chỉ là sự lựa chọn của Đảng, Bác Hồ, mà còn là sự lựa chọn của toàn thể nhân dân và dân tộc Việt Nam. Sự lựa chọn đó luôn và sẽ mãi mãi thống nhất giữa Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta. Lịch sử và thực tiễn đã chứng minh rõ điều đó và được khẳng định đi lên CNXH là con đường duy nhất đúng của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám, giành chính quyền về tay nhân dân, đánh bại hai đế quốc sừng sỏ nhất thời đại là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc đưa cả nước đi lên CNXH. Tiếp đó, công cuộc đổi mới đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Đến nay, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đã đạt khoảng 2.000 USD/người/năm.
            Gần đây, một số hội, đoàn danh xưng (thành lập trái pháp luật), như: “Hội Nhà báo độc lập”, “Văn đoàn độc lập Việt Nam”, rêu rao là hội ái hữu nghề nghiệp, nhưng thực chất là tổ chức chính trị - xã hội đối lập, tạo diễn đàn để các phần tử phản động, bất mãn lợi dụng PBXH đăng tải những bài viết phản động để xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, đi ngược lại lợi ích của dân tộc. Họ kết luận một cách vô căn cứ rằng: “Văn hóa Việt Nam ngày càng suy thoái nghiêm trọng, lộ rõ nguy cơ đánh mất những giá trị nhân bản căn cốt nhất, uy hiếp đến cả sự tồn vong của dân tộc”. Họ không thấy hoặc cố tình không thấy những thành tựu trong lĩnh vực văn hóa ở Việt Nam, cũng như việc Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện rất nhiều giải pháp nhằm giữ gìn, xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam. Nổi bật là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) Về xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
            Một số “nhà lý luận” còn lợi dụng PHXH để kích động, tuyệt đối hóa tự do, dân chủ, rằng: chúng ta đang xây dựng một xã hội “thiếu một không gian tự do”, “tự do là không chính trị”, “dân chủ hóa, giải phóng con người là chiếc chìa khóa vạn năng”, v.v. Ở đây khái niệm tự do đã bị hiểu theo nghĩa không còn tổ chức, không còn quy tắc, văn hóa, pháp luật, nghĩa là không còn gì ràng buộc. Và họ vội vã kết luận: nguyên nhân trì trệ về kinh tế là do trì trệ về chính trị. Như vậy, bằng con đường tiếp cận “khác biệt”, thiếu thực tiễn đó, họ đã đổ lỗi cho chế độ chính trị của chúng ta. Thử hỏi đất nước sẽ như thế nào nếu tự do, dân chủ một cách vô nguyên tắc, phi pháp luật? Thực tế đã cho thấy, không thể áp dụng một cách máy móc kiểu “tự do”, “dân chủ” ở một đất nước nào đó cho đất nước Việt Nam với những đặc điểm riêng về lịch sử xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa, trình độ nhận thức của người dân, v.v.
            Dân chủ là một giá trị xã hội và là thành tựu của nhân loại, được hình thành và phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có cơ chế quản lý xã hội và trình độ làm chủ của người dân. Thực tế, đa nguyên, đa đảng không phải là yếu tố duy nhất đảm bảo dân chủ. Bất cứ một xã hội nào, một đảng hay đa đảng, nếu đảng cầm quyền và nhà nước quan tâm đến cơ chế đảm bảo quyền lực và lợi ích thực sự của nhân dân, tôn trọng nhân dân, coi nhân dân là gốc, là chủ thể của quyền lực,... thì xã hội đó thực sự có dân chủ và tự do. Đảng và Nhà nước Việt Nam là như vậy, luôn trân trọng những ý kiến PBXH; điều quan trọng là những ý kiến đó có tính chất xây dựng không, có vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc không. Nhà nước ta đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Trong Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước ta đều khẳng định “mọi quyền lực thuộc về nhân dân”, “nhân dân lao động là người chủ đất nước”. Có thể ở một số ít tổ chức, một số cán bộ nào đó còn vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Song, đó chỉ là cá biệt, không phải là phổ biến, cho nên không thể vin vào những hiện tượng đơn lẻ đó mà phủ nhận thành quả về dân chủ, tự do đang diễn ra trên đất nước Việt Nam. Những mưu đồ thổi phồng hoặc lợi dụng những hiện tượng đơn lẻ đó để kích động chống đối là những hành động phản lại lợi ích của dân tộc.
            Trên lĩnh vực kinh tế, họ mượn danh PBXH cho rằng: không để các thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể giữ vai trò chủ đạo; không nên giữ khái niệm “định hướng XHCN” vì nó trừu tượng, không định lượng được vấn đề, chưa nhận thức rõ và chưa có mô hình cụ thể, v.v. Và họ đòi phải đẩy mạnh tư nhân hóa các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Về vấn đề đó, Đảng ta đã xác định chủ trương nhất quán: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Phát triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch và quy định của pháp luật”1. Lợi dụng chủ trương đó và thông qua PBXH đòi thay đổi cơ chế, chính sách để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển và cố tình phủ định, tìm cách làm suy yếu, vô hiệu hóa vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN, thực chất là, làm chệch hướng XHCN của nền kinh tế đất nước, đi từ xóa bỏ mô hình kinh tế đến xóa bỏ chế độ XHCN. Mưu đồ đó của các thế lực thù địch, phản động là hết sức thâm độc, nguy hiểm. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được Đảng ta chỉ rõ: “Đây là một hình thái kinh tế thị trường, vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH”2.
            Trên thực tế, hiệu quả của định hướng XHCN đã và đang phát huy hiệu quả trên nhiều lĩnh vực. Nhiều tổ chức kinh tế thế giới đã công nhận Việt Nam là nước sử dụng các khoản vay có hiệu quả nhất, thực hiện Chương trình “Xóa đói giảm nghèo” tốt nhất; đời sống của nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, ngày càng được cải thiện, v.v. Điều đó có được chính là nhờ “định hướng XHCN”. Trên thực tế, định hướng XHCN là để khắc phục những khiếm khuyết của kinh tế thị trường, điều tiết mức sống giữa các khu vực, giữa vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, khu vực khó khăn với vùng đồng bằng và giữa các giai tầng trong xã hội.
            Hoạt động PBXH đang tiếp tục diễn ra trong đời sống xã hội với những tín hiệu tích cực, nhưng chúng ta phải hết sức cảnh giác các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Vì vậy, các cơ quan chức năng cần thể chế hóa các hoạt động phản biện, PBXH trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; quy định rõ về đối tượng, phạm vi, nội dung, hình thức, cơ chế thực hiện PBXH để nâng cao hiệu quả. Trong đó, cần coi trọng các chế tài xử phạt các hành vi lợi dụng PBXH để chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân, phản lại lợi ích dân tộc. Đồng thời, tăng cường công tác quản lý nhà nước trong hoạt động PBXH; chú trọng phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bảo đảm cho các hoạt động này diễn ra đúng quy định của pháp luật, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm quốc phòng - an ninh của đất nước. Cùng với đó, các ngành, các cấp cần đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân về hoạt động PBXH để đảm bảo mỗi vấn đề PBXH đều mang tính xây dựng, trung thực, khoa học, khách quan và thiết thực. Thực hiện tốt các giải pháp trên là phương thức hữu hiệu để phát huy mặt tích cực của PBXH; đồng thời, ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn lợi dụng PBXH để chống phá nước ta của các thế lực thù địch, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.
                                                                                    MẠNH DŨNG


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH - GIÁ TRỊ KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN

              Tư tưởng Hồ Chí Minh - tài sản tinh thần quý báu của Đảng và dân tộc Việt Nam - cùng với chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã, đang và sẽ soi đường cho dân tộc ta đi lên trong thế giới đầy biến động. Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước càng đi vào chiều sâu thì tư tưởng Hồ Chí Minh càng thể hiện rõ giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc, là nền tảng tư tưởng cho mọi hoạt động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Điều đó là không thể phủ nhận.
            Tư tưởng Hồ Chí Minh là “một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào điều kiện cụ thể của n­ước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại”1. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Thực tế cho thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn tỏ rõ sức sống mãnh liệt, có giá trị dẫn đường, tiếng kèn xung trận cho Đảng, nhân dân và dân tộc Việt Nam tiến lên trong “cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”2, thực hiện “điều mong muốn cuối cùng” là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”3. Đây là điều đã được lịch sử ghi nhận và khẳng định trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.
            Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm thấy ở chủ nghĩa Mác – Lê-nin con đường cứu nước và phát triển đúng đắn cho dân tộc ta, Người đã khẳng định: bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất là chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Bởi đây là thế giới quan, nhân sinh quan, là dòng chủ lưu trong hệ dòng chảy của các luồng tư tưởng tiến bộ trên thế giới. Tuy nhiên, các thế lực thù địch xưa nay vẫn luôn phủ định, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lê-nin, và cho rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sai lầm khi lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin làm cơ sở lý luận cho con đường phát triển của xã hội Việt Nam, nhất là trong điều kiện hiện nay. Chúng rêu rao rằng, chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã sụp đổ hoàn toàn cùng với sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa; đó là thứ lý luận lỗi thời, đang ngăn trở con đường đi lên của dân tộc Việt Nam(!) Với kiểu lý lẽ đó, họ đòi Đảng ta phải từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin với tư cách là nền tảng tư tưởng, có như vậy con đường phát triển của cách mạng Việt Nam mới đi đúng theo quỹ đạo của thế giới. Thế nhưng, họ đã lầm. Họ càng phủ nhận thì chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh càng được tôn vinh, tỏa sáng, khẳng định giá trị. Xét cả về mặt lý luận và thực tế cho thấy, chủ nghĩa Mác – Lê-nin là lý luận chính trị cơ bản, mang tính định hướng con đường giải phóng cho nhân dân Việt Nam; là khoa học về những quy luật chung nhất của sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, về cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại mọi sự bất công, nô dịch của đế quốc, phong kiến để xây dựng một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Cùng với đó, Hồ Chí Minh đã xác định đúng mục tiêu phát triển của dân tộc Việt Nam. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam: làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Nói cách khác, mục tiêu của cách mạng Việt Nam là tiến tới chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội, đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu đó là duy nhất đúng, phù hợp với xu thế của thời đại. Sự lựa chọn mục tiêu phát triển của dân tộc ta thuộc về Hồ Chí Minh; đồng thời, là điểm quan trọng nhất của hệ thống các nội dung cơ bản trong tư tưởng của Người. Nhưng, sẵn thói hằn học với cách mạng, các thế lực thù địch cho rằng, mục tiêu phát triển của dân tộc Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định là sai lầm. Vì thế, Việt Nam sẽ phải trải qua biết bao chiến tranh, phải trả giá đắt cho sự phát triển(!) Sự thật lịch sử đã bác bỏ những quan điểm sai lầm, hằn học ấy của chúng và khẳng định Việt Nam sẽ phát triển hoàn thiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
            Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ rõ con đường thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là:giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người, nhằm đưa Việt Nam phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bức tranh toàn cảnh của thế giới từ khi có chủ nghĩa Mác ra đời gần 170 năm qua cho thấy có vô vàn con đường đi đến mục tiêu. Đối với Việt Nam, lịch sử phát triển của dân tộc đã sàng lọc, lựa chọn con đường phát triển một cách tự nhiên, không theo một mô hình cụ thể nào. Với truyền thống yêu nước, các phong trào đấu tranh giành độc lập cho đất nước Việt Nam theo tư tưởng tư sản đã diễn ra sôi nổi, nhưng đều bị thất bại (tiêu biểu là hai phong trào do Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh khởi xướng và lãnh đạo). Chính vì thế, sự nghiệp giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mới có ý nghĩa mở ra thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam và chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo cho độc lập dân tộc được củng cố vững chắc. Đi theo tư tưởng Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam từ một nước thuộc địa - phong kiến, mới trở thành một nước độc lập, tự chủ, có nền kinh tế phát triển bền vững, con người được giải phóng khỏi ách áp bức, bất công, được phát triển tự do, toàn diện, vươn tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Thế mà, với những luận điệu cũ rích và lòng hận thù, chống cộng điên cuồng, các thế lực thù địch, hay những người nhân danh là “nhà dân chủ” thường rêu rao rằng, đi theo con đường này sẽ đưa dân tộc Việt Nam vào ngõ cụt; bởi thế, cần từ bỏ nó để “kịp đi với con đường chung mà thế giới hiện nay đang đi” - con đường tư bản chủ nghĩa. Thật hoang đường, lố bịch! Trên thực tế, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã trải qua bao thử thách và được chứng minh là hoàn toàn đúng. Ngày nay, đất nước ta hoàn toàn độc lập, thống nhất, quyền con người, quyền công dân ngày càng được đảm bảo, vị thế đất nước trong khu vực và trên thế giới ngày càng được khẳng định. Việt Nam không chỉ là biểu tượng của nhân loại tiến bộ trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, mà còn là biểu tượng của sự nỗ lực vươn lên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xóa đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội. Nếu không đi theo con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra, thì Việt Nam sẽ không có độc lập dân tộc thật sự, người dân Việt Nam sẽ mất địa vị làm chủ xã hội, không có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc như hằng mong muốn. 
            Tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn cho việc tập hợp sức mạnh vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Nhắm tới mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam nhất thiết phải có lực lượng. Đó là sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo, sắc tộc, giàu nghèo, gái trai, vùng miền,… mà nòng cốt là khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức. Thực tế cho thấy, mọi người thuộc các giai tầng khác nhau trong xã hội đều có lợi ích chung nhất là độc lập dân tộc, đất nước được phồn vinh, được sống trong ấm no, tự do, hạnh phúc, các dân tộc, cộng đồng người trong quốc gia bình đẳng, dân chủ, tương trợ nhau. Khối đoàn kết toàn dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành chiến lược cách mạng, có tính bền chặt, thủy chung, lâu dài. Lực lượng của cách mạng Việt Nam là lực lượng của toàn dân tộc gắn kết với lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới; sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh quốc tế; đoàn kết, hợp tác với tất cả các lực lượng tiến bộ yêu chuộng hòa bình, công lý trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới và như thế càng phù hợp với xu thế của toàn cầu hóa hiện nay. Để tập hợp lực lượng, Đảng Cộng sản Việt Nam - đảng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc giữ vai trò lãnh đạo. Sự trong sạch, vững mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện tiên quyết, quyết định đảm bảo cho cách mạng Việt Nam luôn giành thắng lợi. Hiện nay, các thế lực thù địch chĩa mũi nhọn vào việc chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi, Đảng ta là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội. Chúng tìm mọi cách để thực hiện “diễn biến hòa bình”, gây “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đòi phủ nhận Điều 4, Hiến pháp 2013 của nước ta, v.v. Lúc thì công khai, khi thì ngấm ngầm, chúng tìm mọi cách chia rẽ nội bộ, phá vỡ khối đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ nhân dân với Đảng và Nhà nước, kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan,… nhằm gây mất ổn định chính trị - xã hội, phủ nhận giá trị, làm lu mờ, mất sức sống tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
            Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đưa ra hệ thống quan điểm về xây dựng một xã hội mới, xây dựng văn hóa và con người Việt Nam với chuẩn mực đạo đức cách mạng. Xã hội mới ở đây là xã hội xã hội chủ nghĩa. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là kết quả của sự khái quát, tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới; kế thừa và phát triển tinh hoa văn hóa dân tộc, nhân loại mà trực tiếp nhất là lý luận chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào điều kiện thực tế Việt Nam. Đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh là: có lực lượng sản xuất phát triển cao, gắn với tiến bộ khoa học, kỹ thuật và văn hoá; có nền tảng kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và nguyên tắc phân phối theo lao động; có chế độ chính trị do nhân dân làm chủ, nhà nước của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có hệ thống các quan hệ xã hội công bằng, bình đẳng, dân giàu, nước mạnh, không còn chế độ bóc lột, áp bức, bất công, không còn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và nông thôn, v.v. Đó là xã hội mà con người được giải phóng triệt để, có điều kiện phát triển toàn diện, có sự phát triển hài hòa giữa xã hội và tự nhiên; là công trình lao động sáng tạo của quần chúng nhân dân tự xây dựng; có quan hệ hòa bình, bình đẳng, hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước vì sự tiến bộ và phát triển. Những đặc trưng trên là hệ thống các giá trị xoay quanh trục con người, lấy con người làm tâm điểm cho mọi sự phát triển. Vì thế, chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội của con người, do con người, vì con người, đạt đến trình độ dân chủ triệt để, nhân văn cao cả của loài người. Đạo đức cách mạng, thuộc lĩnh vực của văn hoá, là cái gốc của sự phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức ngư­­ời cách mạng như là cái gốc của cây, nguồn của sông, cái căn bản của một con người. Trong đó, tr­ọng tâm là thái độ đối với con ng­ười, lòng yêu thương, quý trọng con người, trước hết là những người bị áp bức, bóc lột, những ngư­ời cùng khổ; là trung với nước, hiếu với dân. Theo Người, mọi cán bộ, đảng viên phải là những người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, thật sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” - nội dung cơ bản của đạo đức - cái gốc sự phát triển trong triết lý Hồ Chí Minh.
            Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác – Lê-nin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho sự phát triển vững chắc của dân tộc Việt Nam. Trên cơ sở đó, Đảng ta mới xác định đúng đắn lập trường, quan điểm, đề ra cương lĩnh chính trị, hoạch định đường lối, chủ trương, phương pháp cách mạng và phương châm chỉ đạo thực tiễn; đề ra những nguyên lý và tổ chức thực tiễn công tác xây dựng Đảng. Đồng thời, coi đó là vũ khí sắc bén để đấu tranh có hiệu quả chống lại các tư tưởng phản động, sai trái; lãnh đạo toàn dân đi đúng hướng, đáp ứng yêu cầu phát triển của dân tộc, phù hợp với quy luật của thời đại mới và giành những thắng lợi vĩ đại. Thực tế lịch sử ra đời và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy, việc Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp tính chất của thời đại mới và đáp ứng yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam. Thế nhưng, có người muốn tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lê-nin hoặc tìm mọi cách đả kích, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh và “bôi đen” đạo đức của Người, nhằm thực hiện cái gọi là “hạ bệ thần tượng”, lung lạc những người nhẹ dạ, cả tin, phủ nhận những giá trị cơ bản, đúng đắn trong tư tưởng của Người. Cần phải khẳng định rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác – Lê-nin có mối quan hệ khăng khít, là một chỉnh thể làm thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin là cơ sở, là nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh. Không có chủ nghĩa Mác – Lê-nin thì không thể nào có tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì thế, cố tình đem tư tưởng Hồ Chí Minh tách rời, thậm chí đối lập với chủ nghĩa Mác – Lê-nin là hoàn toàn không đúng về lý luận và thực tiễn. Có ý kiến cho rằng, ở Việt Nam, chỉ cần nêu tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ, hay tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác – Lê-nin ở Việt Nam cũng là quan điểm sai trái. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, nhưng không có nghĩa cách mạng Việt Nam chỉ cần tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ. Ý kiến này tưởng như đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng kỳ thực lại là xuyên tạc và hạ thấp tư tưởng của Người. Chỉnh thể làm nên hệ tư tưởng của cách mạng Việt Nam là: chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là giá trị không thể phủ nhận.

                                                            GS, TS. MẠCH QUANG THẮNG


AI LÀ NGƯỜI MANG LẠI QUYỀN CON NGƯỜI CHO NGƯỜI DÂN VIỆT NAM?

            Lợi dụng vấn đề nhân quyền để chống phá cách mạng Việt Nam là thủ đoạn quen thuộc của các thế lực thù địch. Càng gần đến Đại hội XII của Đảng họ lại càng ra sức chống phá quyết liệt hơn. Thế nhưng, họ cố tình quên rằng chính họ đã gây nên những nghịch lý về nhân quyền ở Việt Nam và quyền con người ở Việt Nam có được chính là do Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam mang lại.
            Không phủ nhận rằng về phương diện lịch sử, chế định quyền con người ra đời từ các cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Ngày nay, khi nói về lịch sử chế định quyền con người, người ta thường nhắc tới “Luật về các quyền của Anh” năm 1689, “Tuyên ngôn độc lập” năm 1776 và Hiến pháp bổ sung năm 1787 của Mỹ, “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” năm 1789 của Pháp. Trong đó, hai văn kiện của Mỹ và Pháp được Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn trong Bản “Tuyên ngôn độc lập” của Việt Nam năm 1945.
            Thế nhưng, từ khi xuất hiện chủ nghĩa đế quốc (vào thế kỷ XIX) với các cuộc chiến tranh xâm lược, mở rộng thị trường…, các chính quyền thực dân đã không thực hiện các giá trị tự do, bình đẳng, bác ái với các dân tộc thuộc địa. Trái lại, chính các cuộc xâm lược đã gây ra không biết bao nhiêu đau khổ cho các dân tộc bằng sự áp đặt chế độ thuộc địa, đồng thời duy trì chế độ phong kiến bản địa hà khắc để bóc lột lao động và cướp bóc tài nguyên của các dân tộc bị áp bức. Ở nước ta, đó chính là cuộc xâm lược và các chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp từ năm 1858 đến năm 1954. Hậu quả của cái mà họ nói “khai hóa” cho nhân dân Việt Nam là: vào cuối năm 1944, đầu năm 1945 trên địa bàn từ tỉnh Quảng Trị trở ra Bắc Bộ đã diễn ra nạn đói khủng khiếp, đau thương, nhất là tỉnh Thái Bình[1].  Theo nhiều nghiên cứu, riêng từ tháng 01 đến tháng 5-1945, số người chết đói lên đến trên 2 triệu người, gần bằng 10% dân số Việt Nam lúc đó! Đây là nghịch lý đầu tiên về nhân quyền diễn ra ở Việt Nam.
            Sau khi nhân dân ta giành được độc lập, thực dân Pháp và sau đó là đế quốc Mỹ đã tiến hành hai cuộc chiến tranh xâm lược hòng xóa bỏ thành quả Cách mạng Tháng Tám do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến Việt Nam thành hai quốc gia riêng biệt. Đặc biệt, trong cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ - quân đội Mỹ đã sử dụng vũ khí mang tính hủy diệt. Họ dùng máy bay B52 ném bom vào thành phố, các xóm làng bình yên, hòng đưa “miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”. Trong 10 năm, từ 1961 đến 1971, quân đội Mỹ đã rải hơn 18,2 triệu gallon chất độc da cam với thành phần chứa dioxin xuống hơn 10% diện tích đất ở miền Nam Việt Nam, làm nhiễm độc và tàn phá hàng triệu héc-ta rừng và đất nông nghiệp. Ngoài tác hại cho môi trường, hóa chất này còn gây hậu quả trầm trọng cho tính mạng, sức khỏe của nhiều người cả Việt Nam và Mỹ, thậm chí tới các thế hệ sinh ra sau chiến tranh. Hiện nay, ước tính có khoảng 4,8 triệu người Việt Nam bị nhiễm chất độc da cam/dioxin, hàng trăm nghìn người trong số đó đã qua đời. Hàng triệu người và cả con cháu của họ đang phải sống trong bệnh tật, nghèo khó do di chứng của chất độc da cam, v.v. Cần phải nhắc lại: sau khi Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất (tháng 4-1975), các thế lực thù địch trong và ngoài nước lợi dụng vấn đề nhân quyền để bao vây, cấm vận và thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” gây ra không biết bao nhiêu khó khăn cho công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng đất nước của nhân dân ta. Đây là nghịch lý thứ hai về nhân quyền diễn ra ở Việt Nam.
            Sau sự kiện Chủ tịch nước Trương Tấn Sang thăm chính thức Hoa Kỳ (tháng 7-2013), với tinh thần gác lại quá khứ, hướng tới tương lai, hai quốc gia Việt Nam - Hoa Kỳ thiết lập quan hệ đối tác toàn diện, là bước khởi đầu cho sự hợp tác giữa hai nước; đồng thời, mở ra con đường giải quyết những vấn đề bất đồng về nhân quyền giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Song, trước chuyến thăm Hoa Kỳ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (tháng 7-2015), một số người “bất đồng chính kiến” còn lợi dụng tư duy cũ về sự khác biệt giữa hai chế độ để “củng cố” thêm rào cản nhân quyền giữa hai quốc gia với tham vọng gây thêm khó khăn cho Việt Nam. Họ “gợi ý” cho chính quyền của Tổng thống B. Obama rằng, “Việt Nam muốn được Hoa Kỳ cho tham gia Hiệp định đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP)” thì phải thay đổi chế độ xã hội, phải sửa đổi pháp luật, phải thả tất cả “tù nhân lương tâm”, “tự do ngôn luận, cho ra báo chí tư nhân”, cho “lập hội, đoàn độc lập”. Những việc làm phi lý nêu trên của họ thể hiện sự thù địch và hơn thế vi phạm nhân quyền đối với một quốc gia, dân tộc, đồng thời cản trở sự phát triển quan hệ hợp tác giữa Hoa Kỳ - Việt Nam, trong khi thực tế đang có sự tiến triển tích cực.
            Những năm qua, Hoa Kỳ đã trở thành đối tác quan trọng của Việt Nam, trước hết trong lĩnh vực kinh tế: xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ tăng trưởng liên tục. Nếu năm 2000, Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ đạt khoảng 800 triệu USD thì đến năm 2014, con số này đã là 29,4 tỷ USD, tăng gần 36 lần. Trong điều kiện hai nước đã trở thành đối tác toàn diện, nhiều vấn đề nhân quyền đã và sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Hoa kỳ đã và đang triển khai nhiều hoạt động, như: rà phá bom mìn, tẩy rửa chất độc hóa học, giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam ở Việt Nam, v.v. Việt Nam cũng làm nhiều việc, như: phối hợp với đối tác Hoa Kỳ trong những hoạt động trên; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ trở thành nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, v.v. Như vậy, trong quan hệ chính thức, cấp quốc gia, sự khác biệt về tư duy chính trị (trong đó bao hàm chế độ xã hội) trong quan hệ đối ngoại giữa hai quốc gia đã có những thay đổi tích cực bước đầu (gắn với chế độ chính trị). Tất nhiên, những khác biệt về vấn đề này giữa hai quốc gia cần tiếp tục được khắc phục dù vẫn biết không thể trong “một sớm một chiều”, nhưng chí ít không là rào cản chính trong sự phát triển quan hệ giữa hai nước.
            Nói vậy để thấy, nghịch lý về nhân quyền không phải không còn tồn tại đối với Việt Nam. Bởi, nó xuất phát từ những chủ thể phi chính thức trong quan hệ đối ngoại và cả ở không gian mạng. Nghịch lý đó do một số người cực hữu trong Hạ nghị viện Hoa Kỳ và một số người tự xem là “người bất đồng chính kiến” ở trong và ngoài nước gây ra. Gần đây (ngày 18-6-2015), tại Hạ nghị viện Hoa Kỳ đã diễn ra cuộc “điều trần về nhân quyền, tôn giáo Việt Nam” do Hạ nghĩ sỹ Chris Smith, Tiểu Ban Nhân Quyền Hạ viện Hoa Kỳ chủ trì. Những nội dung được “điều trần” nhằm chuẩn bị cho cái gọi là “Dự luật nhân quyền cho Việt Nam” chỉ là những thông tin sai lệch về tình hình thực tiễn ở Việt Nam, do những trang mạng chống Cộng cung cấp. Ở trong nước, những người “bất đồng chính kiến” ra sức xuyên tạc, bôi nhọ chế độ xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Điệp khúc mà họ thường rêu rao là: chế độ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là chế độ “độc tài toàn trị”. Theo họ, những người vi phạm pháp luật bị xử lý là “dân oan”, là “người bất đồng chính kiến”, người “chống tham nhũng”, “người yêu nước”, v.v. Thật xấu hổ khi họ không tự hỏi, trên thế giới có quốc gia nào không xử lý những kẻ vi phạm pháp luật? Mục tiêu của họ đã rõ ràng là lợi dụng vấn đề nhân quyền để chống Đảng, chế độ. Họ cố tình ngụy biện cho giải pháp mà họ đưa ra là chuyển chế độ “độc tài toàn trị của Đảng Cộng sản Việt Nam” sang chế độ “dân chủ, dân tộc”.
            Ai cũng biết kinh tế Việt Nam hiện nay còn gặp khó khăn cả về thị trường nhập khẩu và xuất khẩu hàng hóa. Điều này đã ảnh hưởng tới công ăn, việc làm, thu nhập của người lao động. Như vậy, việc cố tình gây khó khăn cho Việt Nam giải quyết những vấn đề kinh tế nói trên, tác động tiêu cực đến đời sống của người lao động chẳng phải là một “nghịch lý về nhân quyền” được những người “bất đồng chính kiến” tạo ra đó sao?
            Tuy nhiên, những “nghịch lý về nhân quyền” nói trên đã không có cơ hội để tồn tại. Bởi, nền dân chủ của Việt Nam đang đi vào cuộc sống với những sự kiện sống động. Chẳng hạn: chế độ bảo hiểm, tiền lương của người lao động, cơ chế dân chủ, nhất là vai trò của Công đoàn được bảo đảm. Tháng 6-2015, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Nghị quyết về việc thực hiện chính sách hưởng bảo hiểm xã hội một lần sau một năm nghỉ việc theo kiến nghị của người lao động. Theo đó, Nghị quyết của Quốc hội cho phép kéo dài việc thực hiện chính sách hưởng bảo hiểm xã hội một lần đối với người lao động sau một năm nghỉ việc, nếu không tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội…, theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 55 của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006. Hoặc gần đây, là vấn đề về mức tăng lương tối thiểu, nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động theo cơ chế “ba bên” của chế độ ta. Rõ nhất là, mới đây Đảng ta đã đưa ra lấy ý kiến toàn dân về các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng; qua đó, tiếp thu những đóng góp hợp lý của nhân dân để Đảng bổ sung, hoàn thiện đường lối lãnh đạo trong nhiệm kỳ tới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, người dân Việt Nam ngày càng được tham gia sâu rộng hơn vào đời sống chính trị - xã hội của đất nước.
            Sự thực trên minh chứng rõ rằng: Đảng Cộng sản, Nhà nước Việt Nam đã và đang phấn đấu nỗ lực hết mình để bảo đảm quyền con người ngày một tốt hơn. Thực tiễn đời sống xã hội ở nước ta đã khẳng định điều đó, không có chỗ để những kẻ lợi dụng vấn đề “nhân quyền” lải nhải những điều phi lý và vô nghĩa về quyền con người ở Việt Nam./.

                                                                                   BẮC HÀ



Thứ Năm, 18 tháng 8, 2016

THỰC CHẤT VỀ CÁI GỌI LÀ: "CHÚNG TA LÀ TỰ DO"

               Gần đây, trên một số trang mạng xuất hiện cái gọi là khẩu hiệu: “Chúng ta là tự do” hòng tuyên truyền, kêu gọi và kích động người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài chống Đảng, nhân dân và dân tộc. Đây là thủ đoạn tập hợp lực lượng rất thâm độc của các thế lực thù địch, phản động. Chúng ta cần cảnh giác và kiên quyết đấu tranh loại bỏ.
            Cùng với các hoạt động tán phát tài liệu tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, vi phạm quyền tự do, dân chủ…, các thế lực thù địch ở nước ngoài ra sức kêu gọi người dân đấu tranh vì “tự do, dân chủ, nhân quyền”; kêu gọi chính phủ các nước phương Tây can thiệp, ủng hộ. Thậm chí, các tổ chức phản động người Việt ở nước ngoài còn kêu gọi người dân trong và ngoài nước hãy cùng nhau đứng dậy biến năm 2015 thành năm hành động cho Việt Nam, với cái gọi là: “Chúng ta là tự do”.
Thoạt nghe, người ta, nhất là những người nhẹ dạ cả tin sẽ dễ lầm tưởng lời kêu gọi khẩn thiết, vô vọng ấy có vẻ có lý. Còn đối với người Việt Nam đích thực, những người đã thấu hiểu từng “chân tơ, kẽ tóc”lòng lang dạ sói của những kẻ đề xướng về cái gọi là “chúng ta là tự do” ấy thì không thể mắc lừa, càng không thể rơi vào cạm bẫy mà chúng giăng ra. Hãy xem thực chất của “Chúng ta là tự do” mà các thế lực thù địch đang rêu rao là gì? Bằng những vỏ bọc kín, với những cụm từ mỹ miều, như: “tự do tư tưởng”, “tự do nhân quyền”, “tự do dân chủ”, “tự do tôn giáo”, “tự do ngôn luận” và hàng trăm thứ “tự do” khác - những vấn đề mà theo đúng nghĩa đen của nó đang được cả nhân loại quan tâm - thì mặc dù vậy vẫn không khỏa lấp và che giấu được bản chất, mục đích đạt tới, thủ đoạn thấp hèn của những  thế lực thù địch đối với Đảng, nhà nước và dân tộc Việt Nam. Họ kêu gọi thế giới ủng hộ, kêu gọi người Việt Nam ở trong nước và ngoài nướcđòi “tự do”, đấu tranh vì “tự do” theo mô hình phương Tây, tự do vô chính phủ, bất chấp luật pháp. Thử hỏi có quốc gia nào trên thế giới chấp nhận điều đó? Và có quốc gia nào có thể làm ngơ và không nghiêm trị theo quốc pháp những hành động phá hoại đất nước và dân tộc như vậy?
            Điều 29 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền đã quy định: Pháp luật hạn chế các quyền và tự do vì các mục đích bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng các quyền và tự do của người khác, cũng như nhằm bảo đảm các yêu cầu về quốc phòng, an ninh, trật tự công cộng, đạo đức và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ. Điều 19, Công ước quốc tế về những quyền dân sự, chính trị (năm 1966) cũng khẳng định: Quyền tự do có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, v.v.
            Trong “Tuyên bố Viên và Chương trình hành động”, cộng đồng quốc tế cũng khẳng định: “thực hiện quyền con người phải luôn ghi nhớ ý nghĩa của tính đặc thù dân tộc và khu vực về lịch sử, văn hóa và tôn giáo…”. Công ước Châu Âu về Nhân quyền (có hiệu lực từ ngày 03-9-1953), trong khoản 2 của Ðiều 10 quy định: việc thực thi các quyền bày tỏ quan điểm, trao đổi quan điểm gắn với các hạn chế được cụ thể hóa trong pháp luật của mỗi quốc gia.
            Trên thực tế, mỗi quốc gia đều căn cứ vào nhiều nhân tố: tình hình, đặc điểm truyền thống, bản sắc văn hóa – xã hội,… mang tính đặc thù để xây dựng hệ thống pháp luật phù hợp, trong đó có các luật về nhân quyền, quyền công dân, quyền tự do ngôn luận. Ở đó không thể có thứ “tự do tuyệt đối”, “tự do không giới hạn” mà không bị hạn chế vì những lợi ích nhiều mặt của quốc gia, dân tộc, vì an ninh, sự ổn định xã hội. Bởi, nếu thiếu nó thì mọi nỗ lực của con người hướng tới sự tự do đích thực đều trở nên vô nghĩa. Cũng vì vậy, nên không phải ngẫu nhiên mà Liên minh châu Âu cho phép các nước thành viên cân nhắc lợi ích của mỗi quốc gia để đưa ra các quy định cụ thể, nhằm hướng dẫn công dân thực hiện quyền con người; trong đó, có quyền tự do ngôn luận theo tinh thần Công ước châu Âu về nhân quyền. Điều đó cho thấy, quyền con người luôn đặt trong môi trường hoàn cảnh cụ thể. Thụ hưởng quyền con người còn tùy thuộc vào đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán,… cụ thể của từng nơi, của mỗi quốc gia. Không thể áp đặt quyền con người ở nước này cho nước khác và ngược lại.
            Thực tiễn thế giới cho thấy, quyền con người bao giờ cũng gắn chặt với quyền và nghĩa vụ công dân. Không nơi nào và ở bất cứ nơi đâu có sự tồn tại quyền con người một cách tuyệt đối theo nghĩa muốn làm gì thì làm, bất chấp pháp luật. Thực hiện quyền con người phải đi đôi với thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân. Mọi công dân đều có nghĩa vụ tôn trọng và thực thi pháp luật hiện hành. Bất kỳ ai khi cư trú ở một nước đều phải chấp hành luật pháp của nước sở tại, phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
            Trở lại Việt Nam, trong quá trình tìm đường cứu nước và chỉ đạo thực tiễn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn lấy “độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân” là mục tiêu tối thượng và điều đó được kết tinh ở chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Theo Hồ Chí Minh, giá trị tự do là thành quả đấu tranh lâu dài chống áp bức, bóc lột của nhân loại; đó là tự do cho những người nô lệ bị áp bức, bóc lột, “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được được học hành”1, để tiến lên “thế giới đại đồng”. Chỉ có chế độ xã hội chủ nghĩa thì mới có đầy đủ điều kiện đảm bảo quyền tự do của mỗi con người một cách thực sự trên thực tế.
            Hiện nay, ở nước ta, quyền tự do, quyền con người của mỗi công dân được cụ thể hóa bởi luật pháp và được pháp luật bảo vệ. Cụ thể là, Chương II, Hiến pháp năm 2013 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định rõ quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân. Ngoài ra, còn có hệ thống các thiết chế để đảm bảo quyền tự do, dân chủ của mọi công dân trên mọi mặt đời sống xã hội. Đơn cử trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, không chỉ dừng lại ở việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, Chính phủ Việt Nam đã cụ thể hóa và đưa những quy định đó vào thực tiễn cuộc sống. Đến nay, cả nước có 12 tôn giáo với 37 tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận hoạt động trong khuôn khổ pháp luật (tăng gấp 2 lần so với năm 2006), với hơn 100.000 chức sắc và nhà tu hành, gần 26.000 cơ sở thờ tự và trên 30 triệu tín đồ (chiếm 1/3 dân số cả nước). Trong đó, tín đồ Phật giáo khoảng 14 triệu, v.v.
            Việc in ấn, xuất bản kinh sách cũng được Nhà nước quan tâm, hầu hết các tổ chức tôn giáo đều có báo, tạp chí, bản tin, đáp ứng nhu cầu hoạt động của các tôn giáo. Chỉ tính riêng Nhà xuất bản Tôn giáo, mỗi năm đã cấp phép xuất bản hơn 1.000 ấn phẩm liên quan đến tôn giáo. Ngoài ra, quan hệ đối ngoại của các tôn giáo cũng được Nhà nước tạo điều kiện và ngày càng mở rộng, nhất là quan hệ với các tổ chức tôn giáo ở khu vực Đông Nam Á, Tây Âu và Tòa thánh Va-ti-căng, góp phần làm cho bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước cũng như tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam. Đó là sự thật, là bằng chứng sinh động và thuyết phục nhất để bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, bịa đặt về tình hình tôn giáo tại Việt Nam. Thử hỏi rằng, nếu Việt Nam kỳ thị tôn giáo, hạn chế và đàn áp tôn giáo, vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo như luận điệu mà các thế lực thù địch vẫn thường rêu rao thì các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam liệu có thể xác lập vị trí và phát triển ổn định như hiện nay không? Bức tranh tôn giáo ở Việt Nam có thể phong phú, đa dạng đến như vậy hay không?
Như vậy, ở Việt Nam, khi mà các quyền tự do của mọi công dân được hiến định, được hệ thống pháp luật bảo vệ, nhân dân đang được hưởng cuộc sống tự do, hạnh phúc, thực sự trong thực tiễn thì có cần phải tung hô thứ khẩu hiệu “Chúng ta là tự do” không? Tất nhiên, ai cũng biết đó là sự lừa bịp, kích động và mục đích đen tối của những kẻ mang nặng hận thù dân tộc, cố tình ngược lại bánh xe lịch sử. Mưu toan đó, sự ngoan cố đó chắc chắn sẽ là không tới đâu - ảo vọng và thất bại
            Để không bị “sa bẫy” với cái gọi là “Chúng ta là tự do” mà các thế lực thù địch, phản động đang tuyên truyền và để bảo vệ quyền tự do, dân chủ chân chính của mọi công dân, góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, chúng ta cần đẩy mạnh tuyền truyền, giáo dục làm cho mọi cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân nhận rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, nhất là với cái gọi là “Chúng ta là tự do”. Trong đó, cần tuyên truyền cả ở trong nước và đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài “Đồng bào định cư ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”, làm cho mọi người nhận thức một cách đầy đủ về quan điểm, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta.
            Mặt khác, Nhà nước tiếp tục tạo điều kiện để người Việt nam ở nước ngoài được về thăm đất nước, hiểu biết đầy đủ về cuộc sống tự do, hành phúc của nhân dân Việt Nam; tạo điều kiện để kiều bào ở nước ngoài hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng đất nước. Đồng thời, tăng cường quảng bá sâu rộng hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, những thành tựu nổi bật về kinh tế, chính trị, văn hóa, an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế sau 30 năm đổi mới, để họ không mơ hồ, ảo tưởng, “sa bẫy” của các thế lực thù địch và tích cực tham gia đấu tranh làm thất bại các hoạt động chống phá theo kiểu như cái gọi là “Chúng ta là tự do”./.

                                                            SỸ HỌA  – QUANG HỢP 

MỘT HÀNH ĐỘNG TỘI LỖI

                  Hiện nay, một số người đang lợi dụng không gian kỹ thuật số viết bài xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bôi nhọ lịch sử dân tộc và Đảng Cộng sản Việt Nam. Có kẻ đã tưởng tượng ra “Bi kịch Việt Nam”, tạo cớ để các thế lực thù địch công kích vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Đó là một hành động tội lỗi!
            Để thể hiện cái “tâm huyết” chống lại dân tộc, chống lại Đảng, tác giả “Bi kịch Việt Nam” (BKVN) không ngại ngùng đưa lên mạng không chỉ bài viết mà cả lý lịch cá nhân của mình. Ông ta tự giới thiệu mình là nhà văn, là cựu chiến binh và đã gần 70 tuổi. Như vớ được vàng, các thế lực thù địch lập tức phong cho ông ta là “Anh hùng”! Bây giờ chúng ta hãy xem người đó viết những gì mà được các thế lực thù địch ngưỡng mộ và khâm phục đến vậy.
            Xuyên tạc và bôi nhọ chủ nghĩa Mác. Tác giả BKVN viết: “Mọi bất công đau khổ… là do chiếm hữu tư liệu sản xuất. Và: Lịch sử của tất cả các xã hội từ trước đến nay là lịch sử đấu tranh giai cấp! Từ nhận thức vội vàng, nông nổi, lầm lẫn, cực đoan đó, chàng tiến sĩ triết học trẻ tuổi… liền xây dựng lên học thuyết đấu tranh giai cấp để tạo dựng lên một xã hội không còn chiếm hữu tư liệu sản xuất,… Đó là tư tưởng cốt lõi của chủ nghĩa Mác”.
            Ngỡ mình là một tài năng, một trí tuệ lớn và đã ở cái tuổi “gần đất xa trời”, tác giả BKVN cho rằng: mọi người có thể tin những điều mình nói. Chẳng nhẽ Ông ta không hiểu rằng cái lý lịch cho dù có đẹp đẽ ra sao, cho dù tuổi tác đáng để mọi người phải kính trọng như thế nào thì cũng chẳng có giá trị gì – khi lại nói những điều trái với sự thật và trái với lương tri. Ngược lại, đó chỉ có thể là chuyện khôi hài đối với mọi người mà thôi. Giống như câu chuyện tiếu lâm kể về một thầy lang dốt nát, khi cho người đau bụng uống nhân sâm. Người bệnh chết chỉ vì thầy lang mới đọc mệnh đề “phúc thống phục nhân sâm…” (đau bụng uống sâm) ở trang trước mà quên không đọc hai chữ “tắc tử” (sẽ chết) ở trang sau. Tác giả BKVN không hiểu tư tưởng cơ bản, chủ yếu của C. Mác, Ông ta nhắc lại những điều mà những kẻ chống C. Mác đã nói ngay khi C. Mác còn sống, cách đây trên 150 năm.
            Về vấn đề sở hữu, chính trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C. Mác và Ph. Ăng-ghen đã viết: “Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái quyền chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác…”.
            Phải chăng “Thế kỷ XXI chủ nghĩa Mác đã lùi xa”? Tác giả BKVN viết: “Loài người đã bước sang thế kỷ XXI. Thế kỷ của chủ nghĩa Mác đã vĩnh viễn kết thúc và lùi xa rồi!”. Về nhận định này, xin lưu ý bạn đọc rằng, đây là nội dung mà những phần tử “bất đồng chính kiến” đã viết từ những năm 80 của thế kỷ trước. Nhân đây xin được cung cấp cho tác giả BKVN một thông tin từ trường đại học danh tiếng hàng đầu thế giới - Đại học Cambridge (Anh). Vào năm 1999, trường đại học này đã tổ chức một cuộc thăm dò bình chọn nhà tư tưởng lớn nhất thế kỷ. Kết quả là C. Mác đứng đầu, Einstein đứng thứ hai. Tháng 7 năm 2005, với câu hỏi tương tự, trong một cuộc thăm dò ý kiến của chương trình “Thời đại chúng ta” (In Our Time) trên kênh Radio 4 của BBC đã có 27,9% thính giả đã chọn C. Mác là “nhà tư tưởng ưa thích” của họ, và C. Mác vẫn là người đứng đầu.
            Hiện nay, ở nhiều nước tư bản phát triển (TBPT), người ta vẫn duy trì bảo tàng, viện nghiên cứu về C. Mác, như: ở Đức, Pháp… và nhiều nhà khoa học lớn vẫn đang nghiên cứu C. Mác. Giáo sư, tiến sĩ Michel Vadée, trong công trình lớn “C. Mác - Nhà tư tưởng của cái có thể”, đã tự giao cho mình một nhiệm vụ khoa học, không phải là phân tích, bình luận, phát triển tư tưởng C. Mác… mà đơn giản chỉ là đọc lại C. Mác một cách nghiêm túc, đặt những công trình của C. Mác vào đúng hoàn cảnh lịch sử của nó. Vì theo Giáo sư, ngày nay đã có không ít người hiểu không đúng tư tưởng của C. Mác. Trong lời mở đầu công trình, Giáo sư viết: “Sức sống của một tư tưởng được tính bằng con số những cuộc tranh luận và những cuộc đấu tranh mà nó tạo ra. Về mặt này, chủ nghĩa C. Mác thật đáng được ước ao”. Về giá trị phương pháp luận của chủ nghĩa Mác, Giáo sư nói: “C. Mác, nhà tư tưởng của cái có thể”. Có lẽ Michel Vadée muốn nói rằng, C. Mác không phải là nhà thiết kế, không phải là người vẽ ra những mô hình cụ thể nào đó về xã hội XHCN, mà trước hết dựa trên những kết quả phân tích về quy luật lịch sử tự nhiên, để chỉ ra xu hướng phát triển của lịch sử nhân loại như là những giả thuyết cho sự phát triển của lịch sử. Về điều này, trong Lời tựa viết cho bản tiếng Đức, xuất bản năm 1872, Ph. Ăng-ghen viết: “Bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời và do đó không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ở chương II. Đoạn này, ngày nay mà viết lại, về nhiều mặt cũng phải viết khác đi… Tuy nhiên, Tuyên ngôn là một tài liệu lịch sử mà chúng tôi không có quyền sửa lại”. Sinh thời, C. Mác đã có lần nói: Học thuyết của chúng tôi không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho cuộc sống.
            Nhìn lại quá trình vận động, phát triển của chủ nghĩa Mác hơn một thế kỷ qua, Michel Vadée viết: “Sau thời đại giáo điều mác-xít ngự trị và những phê phán triệt để đối với nó, sau những kiểu diễn giải tự do đặc trưng cho một thời kỳ thứ hai trong lịch sử của chủ nghĩa Mác, phải chăng chúng ta đang bước vào một kỷ nguyên mới của nhận thức về Mác”.
            Trong lúc đó tác giả BKVN viết: “Học thuyết đấu tranh giai cấp là tàn bạo”; “Những nhà nước do cách mạng vô sản dựng lên, dùng lý luận chủ nghĩa C. Mác, lý luận làm cách mạng của đám đông… để lại tội ác chưa từng có”… Thật ra, những điều Ông ta nói chẳng qua chỉ là sự sao chép, cóp nhặt những câu chữ rẻ tiền đầy rẫy trên mạng do những kẻ hành nghề chống cộng ở trong và ngoài nước viết ra.
Như C. Mác đã có lần nói: Ông không phải là người phát hiện ra giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhưng đấu tranh giai cấp là một thực tế lịch sử. Những ai có đôi chút kiến thức về lịch sử thế giới đều biết rằng: chế độ nô lệ đã biến con người thành những “công cụ biết nói”. Khá hơn đó một chút là chế độ phong kiến, xã hội “thần dân”. Rồi sự xâm lược của CNĐQ đã biến nhân dân ở các thuộc địa trở thành nô lệ kiểu mới trong chế độ thực dân - phong kiến… mà Việt Nam là một ví dụ.
            Thử hỏi tác giả BKVN rằng: vì sao có sự vận động, phát triển, có các cuộc cách mạng chuyển từ chế độ xã hội này lên chế độ xã hội khác cao hơn? Vì sao có các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc nếu đó không phải là do các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc? Đấu tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc là một thực tế khách quan là con đường tất yếu để giải phóng xã hội, giải phóng dân tộc và giải phóng con người. Tất nhiên, ở mỗi thời kỳ lịch sử, nội dung và hình thức của cuộc đấu tranh đó luôn luôn khác nhau.
            Tôn sùng CNTB một cách ngô nghê. Trong một đoạn khác, tác giả BKVN viết: Ở các nước TBPT “nhờ có khoa học - công nghệ hiện đại mà ngày nay CNTB đã trở nên văn minh không còn bóc lột nữa…; không còn những ông chủ làm giầu bằng bóc lột”. Đọc những câu tác giả BKVN tôn sùng CNTB một cách ngô nghê này, người ta không chỉ buồn cười mà còn thấy đáng thương cho Ông. Phải chăng, ở các nước TBPT hiện nay không còn đấu tranh giai cấp, “không còn bóc lột”? Thiết nghĩ câu hỏi này, phong trào “Chiếm phố Uôn” ở Mỹ và nhiều nơi trên thế giới gần đây đã trả lời cụ thể. 
            Chắc rằng tác giả BKVN không biết đến khái niệm “homeless” (người vô gia cư). Khái niệm này ra đời ở chính các nước TBPT. Hiện nay, những người vô gia cư ở Mỹ, Anh, Nhật, Pháp… vẫn hằng ngày đi tìm công ăn việc làm, thậm chí phải xin ăn, tối đến thì ngủ trong hộp carton mục nát. Tất nhiên ở những quốc gia này vẫn được gọi là những quốc gia giầu có vì thu nhập bình quân đầu người rất cao; tiếc rằng, sự phân phối của cải ở đây đã trở thành sự phân hoá giữa những người siêu giầu với những người cực nghèo.
            Nhân đây phải nói thêm rằng: sự giầu có của các nước TBPT không chỉ bắt nguồn từ sự bóc lột lao động ở các nước thuộc địa, các nước nghèo, mà còn là sự cướp bóc tài nguyên thiên nhiên của các quốc gia đó. Chẳng phải những cuộc xung đột, chiến tranh xâm lược đã và đang diễn ra ở Trung Đông, Bắc Phi, như có nhiều người nói, đều có nguyên nhân từ “cơn khát nhiên liệu, nguyên liệu” của những nước TBPT đó sao?
            Triết lý “bầy đàn” và “cái tôi cá nhân”. Tác giả BKVN nghĩ mình có thể trở thành triết gia của thời đại văn minh, Ông ta viết: “Không có cái tôi cá nhân, chủ nghĩa Mác lại đưa xã hội loài người trở về bầy đàn”. Cứ theo cái lập luận của Ông thì sự phát triển của xã hội loài người chỉ là để tìm đến “cái tôi cá nhân”. Và cái tôi cá nhân còn được Ông tôn sùng như là cái đích của lịch sử.
            Tác giả BKVN nghĩ rằng, cái “thế mạnh, hơn người” của mình là chút ít hiểu biết về lý luận và lịch sử văn học Việt Nam. Với tư duy thiên kiến, chủ quan, hạn hẹp và lộn xộn, Ông ta dường như chỉ biết đến Tự Lực Văn Đoàn và Thơ Mới mà nội dung chỉ là “những người Việt Nam khắc khoải đi tìm cái tôi” và chỉ là “ghi lại nỗi thảng thốt sung sướng phát hiện ra Cái Tôi cá nhân trong cuộc đời và sự khắc khoải, bền bỉ đòi hỏi sự nhìn nhận của xã hội đối với Cái Tôi thiêng liêng”… Không hiểu, nếu những tác giả Tự Lực Văn Đoàn và Thơ Mới còn sống, đọc những lời bình luận (“bền bỉ đòi hỏi sự nhìn nhận của xã hội đối với Cái Tôi thiêng liêng”) của tác giả BKVN thì các ông sẽ vui hay buồn? Thiết nghĩ, đó không phải là một cách đánh giá đúng giá trị của dòng văn học này. Chúng ta trân trọng và chia sẻ với các tác giả của dòng văn học này là nó đã phản ánh được những số phận và nhân cách của một lớp người trong xã hội thực dân phong kiến. 
            “Nhà văn” - tác giả BKVN đã cố tình “bỏ quên” hoặc “lờ đi” dòng văn học cách mạng với những đóng góp to lớn về cả hai phương diện: nghệ thuật và chính trị. Trong dòng văn học này có Nguyễn Ái Quốc với  “Bản án chế độ thực dân Pháp”, Tố Hữu với “Từ ấy”, Sóng Hồng (Trường Chinh), Lê Văn Hiến, Hải Triều (về lý luận văn học)... Bên cạch đó, phải kể đến đóng góp to lớn của dòng văn học hiện thực phê phán với Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng… Hai dòng văn học này không “khắc khoải đi tìm cái tôi” như tác giả BKVN nghĩ, mà đi tìm giá trị của một dân tộc và ước mơ thoát khỏi thân phận nô lệ.
            Thử hỏi nếu mọi người đều “khắc khoải đi tìm cái tôi” thì số phận của dân tộc Việt Nam sẽ ra sao? Đến đây xin để bạn đọc bình luận về tài năng văn chương và động cơ chính trị của tác giả BKVN.    
            Thật ra sự khác biệt giữa phần “con” với phần “người” trong khái niệm con người, không phải chủ yếu ở nhận thức về cá nhân, về cái tôi, như tác giả BKVN tưởng, mà chủ yếu là nhận thức về quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, với dân tộc, và cao hơn cả là với loài người. Khách quan mà nói, sự tôn sùng cái tôi, cái cá nhân cực đoan như tác giả BKVN là cách sống chưa vượt qua được đặc trưng của lối sống  “bầy đàn” theo đúng nghĩa đen của từ này.
            Cái vĩ đại, tính bền vững của chủ nghĩa Mác mà tác giả BKVN không bao giờ hiểu được là lý luận của các ông dựa trên nghiên cứu lịch sử tự nhiên của loài người, gắn nhận thức chân lý khoa học với giá trị nhân văn. Ph. Ăng-ghen đã từng viết: “Theo quan điểm duy vật lịch sử, nhân tố quyết định trong lịch sử, xét đến cùng, là sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Cả C. Mác lẫn tôi, chưa bao giờ khẳng định gì hơn… Chúng ta tự sáng tạo ra lịch sử của chúng ta, nhưng là sáng tạo với những tiền đề và những điều kiện hết sức rõ ràng. Trong những tiền đề và điều kiện đó, điều kiện kinh tế giữ vai trò quyết định cuối cùng”. Về mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, các ông đã viết: “Thay cho xã hội cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”.
            Có thể nói, sự khác biệt của lịch sử nhân loại giữa thế kỷ XX với thế kỷ XIX chính là CNTB đã không còn đóng vai trò độc quyền quyết định số phận của nhân loại. Đối với phong trào giải phóng dân tộc nói chung, với cách mạng Việt Nam nói riêng, ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác thông qua chủ nghĩa Lê-nin và Cách mạng Tháng Mười đã tạo thành trào lưu cách mạng giải phóng dân tộc trên tất cả các châu lục. Lịch sử cho thấy, không có chủ nghĩa Mác thì không có chủ nghĩa Lê-nin, không có Cách mạng Tháng Mười. Không có chủ nghĩa Lê-nin, không có Cách mạng Tháng Mười thì cũng không thể có thắng lợi của Đồng minh (trong đó Liên Xô giữ vai trò quyết định) đối với chủ nghĩa phát xít và do đó, không thể có những thắng lợi có ý nghĩa thời đại của dân tộc ta trong thế kỷ XX.
            Đầu óc nô lệ. Với đầu óc nô lệ, tác giả BKVN viết về tiến trình lịch sử của dân tộc ta trong thế kỷ XX như sau: “Theo lôgic lịch sử, tiến trình đó đang lặng lẽ, bền bỉ và vững chắc diễn ra ở Việt Nam thì những người cộng sản nôn nóng vội vã mang bạo lực cách mạng của học thuyết đấu tranh giai cấp sắt máu từ châu Âu xa lạ về Việt Nam, đưa nhân dân Việt Nam vào những cuộc cách mạng, chiến tranh ý thức hệ đẫm máu… đẩy nhân dân vào cuộc sát phạt, tiêu diệt, xung đột, giằng xé, đấu đá, bất ổn, ly tán cả dân tộc suốt từ giữa thế kỷ XX đến tận hôm nay vẫn chưa chấm dứt”.
            Theo tác giả BKVN, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã “phá vỡ cái logic lịch sử đang lặng lẽ, bền bỉ và vững chắc diễn ra ở Việt Nam” - tức là cái xã hội thuộc địa, nửa phong kiến thối nát - là có tội với dân tộc(!) Và các cuộc kháng chiến chống xâm lược đầy hy sinh, gian khổ của cả dân tộc, đánh bại các thế lực đế quốc hung bạo nhất thế giới, bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ quyền được sống của nhân dân Việt Nam, được cộng đồng quốc tế đánh giá là “lương tâm của thời đại” thì Ông ta lại gọi là cuộc “chiến tranh ý thức hệ đẫm máu” và đó lại là một tội ác của Đảng Cộng sản Việt Nam!
            Có lẽ cho đến nay không có ai ngoài tác giả BKVN nuối tiếc cái “logic lịch sử”, cái thân phận nô lệ của dân tộc ta trước Cách mạng Tháng Tám. Và có lẽ cũng không một người có lương tri nào, kể cả những cựu binh Mỹ lại phủ nhận cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược của dân tộc ta - một cuộc chiến tranh vì chính nghĩa, vì công lý và nhân phẩm của một dân tộc.
            Tương tự như Cù Huy Hà Vũ, tác giả BKVN muốn đổ lỗi mọi hy sinh, tổn thất của dân tộc, mọi tội ác của CNĐQ cho Đảng Cộng sản Việt Nam - rằng các cuộc chiến tranh ở Việt Nam trong thế kỷ XX là chiến tranh “huynh đệ tương tàn”! Nhân đây xin được hỏi tác giả BKVN rằng: Hơn 2 triệu người chết đói năm 1945 và cuộc chiến tranh mang tính diệt chủng với chất độc da cam/đi-ô-xin, với pháo đài bay B52 hòng “đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá”… là tội ác của ai, do ai gây ra? Phải chăng đó là do Đảng Cộng sản Việt Nam, do chủ nghĩa Mác gây ra? Hay là do dân tộc này không “ngoan ngoãn” chấp nhận kiếp sống nô lệ “theo cái lôgic lịch sử”, hoặc không đáng được làm người như người dân ở các nước TBPT mà Ông tôn sùng?
            Điều phải lên án đối với tác giả BKVN là: đã từng là cựu chiến binh (theo ông ta nói) mà lại nuối tiếc cái thân phận nô lệ dưới thời thực dân phong kiến. Và chỉ vì những tham vọng cá nhân mà ông ta đã phủ nhận thành quả vĩ đại của cách mạng Việt Nam - Một thành quả đã phải trả giá bằng không biết bao nhiêu hy sinh xương máu của đồng bào và chiến sĩ, một thành quả đã trở thành giá trị mang tính thời đại của dân tộc ta trong lịch sử nhân loại ở thế kỷ XX… 
Lý lẽ và hành vi của tác giả BKVN không chỉ trái với đạo lý, với lương tri mà còn có tội với vong linh của đồng bào và chiến sĩ đã hy sinh cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Hành động của tác giả BKVN quả thực là hành động tội lỗi!
                                                                                    THÀNH TRUNG