Trước đây, đa số các ý
kiến đều khẳng định: nước ta đang trải qua TKQĐ lên CNXH, chỉ khác trong cách
đề cập những vấn đề về hình thức, bước đi và chính sách, trước hết là về kinh
tế.
Hiện nay, bối cảnh quốc tế và trong nước đã
thay đổi nhiều, thậm chí khá sâu sắc, phức tạp. Mặc dù, chế độ XHCN ở Liên Xô
và Đông Âu sụp đổ, hệ thống XHCN thế giới không còn, nhưng Việt Nam và một số
nước vẫn kiên định con đường XHCN, tiến hành đổi mới và đã giành được những
thành tựu quan trọng; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang dần hồi
phục. Tuy nhiên, các nước theo con đường XHCN, phong trào cách mạng thế giới
vẫn đứng trước nhiều thách thức nghiêm trọng; các thế lực thù địch tìm mọi
phương kế để đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, nhằm xoá bỏ
CNXH.
Trong bối cảnh đó, với những lập trường và phương
pháp luận khác nhau, ở nước ta, nhận thức về TKQĐ lên CNXH có nhiều khác biệt.
Phần lớn trong Đảng và nhân dân ta đứng vững trên lập trường của giai cấp công
nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động; có phương pháp nhận thức biện chứng, lịch sử, đã
khẳng định: nhân dân Việt Nam luôn kiên định với con đường đi lên CNXH. Để thực
hiện mục tiêu đó, nước ta phải trải qua TKQĐ, mà ở đó CNXH khoa học từng bước
được xây dựng về mọi mặt. Trái lại, một thiểu số chịu ảnh hưởng của phương pháp
nhận thức siêu hình, thì phủ nhận TKQĐ, thực chất là họ phủ nhận lý luận chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận con đường đi lên CNXH của
nhân dân ta.
Nghiên cứu Học thuyết Mác, chúng ta thấy, tuy C.
Mác không nói rõ về TKQĐ đi lên CNXH; nhưng trên cơ sở tổng kết lịch sử tiến
hóa nhân loại, Học thuyết Mác đã chỉ ra: lịch sử xã hội loài người là sự phát
triển từ thấp đến cao của các phương thức sản xuất (PTSX). PTSX Tư bản chủ
nghĩa (TBCN) ra đời (tương ứng với nó là hình thái kinh tế-xã hội TBCN) là bước
tiến lớn của nền sản xuất và đời sống nhân loại. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản
(CNTB) đã tự tạo ra mâu thuẫn cơ bản - mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất (LLSX)
có tính chất và trình độ xã hội hóa cao so với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về
tư liệu sản xuất. Việc giải quyết mâu thuẫn đó làm cho xã hội tiếp tục phát
triển, tất yếu dẫn đến sự ra đời PTSX Cộng sản chủ nghĩa (CSCN), tương ứng là
hình thái kinh tế-xã hội CSCN. Và C. Mác cũng chỉ rõ, hình thái kinh tế-xã hội
CSCN phải trải qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp (CNXH) và giai đoạn cao (chủ
nghĩa cộng sản). Giai đoạn đầu là TKQĐ lâu dài, ở đó vừa có kế thừa, phủ
định biện chứng CNTB, vừa xây dựng những yếu tố của CNXH, đến khi xã hội mới
hoàn toàn vận động trên cơ sở nền tảng của nó, thì chuyển dần lên chủ nghĩa
cộng sản. Kế thừa, bổ sung và phát triển Học thuyết Mác, V.I. Lê-nin chỉ ra
rằng: trong giai đoạn đầu, CNXH nhất thiết phải trải qua thời kỳ lịch sử đặc
biệt, đó là TKQĐ từ CNTB lên CNXH. Và, khi kết thúc TKQĐ này thì CNXH với tính
cách giai đoạn đầu của xã hội cộng sản được hình thành từ LLSX cho đến quan hệ
sản xuất (QHSX), từ hạ tầng cơ sở cho đến thượng tầng kiến trúc. Ở Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói về TKQĐ lên CNXH và đặc điểm không kinh qua
giai đoạn phát triển TBCN để tiến theo con đường XHCN. Như vậy, TKQĐ từ
CNTB lên CNXH mang tính tất yếu, phổ biến đối với tất cả các nước theo chế độ
XHCN, không phải là chủ quan áp đặt, mà gắn liền với nội dung kinh tế và
chính trị xác định .
Trước hết, về nội dung
kinh tế-xã hội. Trong TKQĐ lên CNXH, kết cấu kinh tế-xã hội TBCN và kết cấu
kinh tế-xã hội XHCN cùng chung sống, tác động qua lại, vừa hợp tác, vừa cạnh
tranh, thống nhất đa dạng trong nền kinh tế do nhà nước tổ chức, quản lý. Nhà
nước này là nhà nước pháp quyền XHCN, mọi quyền lực thuộc về nhân dân,
đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Ngày nay, ở nước ta, đó là nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế này tồn tại và phát triển lâu dài trong
TKQĐ lên CNXH, nhất là trong điều kiện bỏ qua chế độ TBCN.
Vậy, nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại bao lâu? Thực
tế cho thấy, tuỳ theo diễn biến của lịch sử, điều kiện chủ quan và khách quan
mà lịch sử sẽ làm sáng tỏ và trả lời dần câu hỏi phức tạp này. Trong xã hội
mới, với sự quản lý, tổ chức của nhà nước XHCN, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng
cộng sản, thì những nền tảng vật chất và tinh thần của CNXH từng bước được xây
dựng và không ngừng lớn mạnh. Nói cách khác, PTSX XHCN bao gồm cả hai mặt LLSX
và QHSX được xây dựng và phát triển, mà nòng cốt là LLSX hiện đại và chế độ
công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu.
Nước ta đi lên CNXH từ một nền
kinh tế kém phát triển, bỏ qua chế độ TBCN, nên phải từng bước xây dựng LLSX
hiện đại, đồng thời phải xây dựng QHSX phù hợp. Cho nên, mặc dù chúng ta có lợi
thế của nước đi sau, có thể đi tắt, đón đầu về khoa học-công nghệ; song TKQĐ
lên CNXH của nước ta chắc chắn rất lâu dài, gian khổ và phức tạp. Chỉ khi nào,
xã hội mà chúng ta đang xây dựng, tạo ra được năng suất lao động cao hơn CNTB,
thì con đường bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH mới giành được thắng lợi; CNXH mới
có cơ sở vững chắc để tồn tại, phát triển, góp phần tích cực thúc đẩy thời đại
quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
Về nội dung chính trị. Vấn đề quan trọng hàng đầu
là xây dựng một nhà nước kiểu mới, gắn liền với xây dựng một nền dân chủ mới.
Đây là kiểu nhà nước chưa từng có trong lịch sử nhân loại, là nhà nước của dân,
do dân, vì dân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Để xây dựng được nhà nước đó,
thay thế cho kiểu nhà nước của các giai cấp thống trị, là quá trình phức tạp,
phải tìm tòi, thử nghiệm.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã dạy chúng
ta: cuộc sống sẽ chỉ ra cái gì có thể đứng vững được; do đó, chúng ta phải tìm
tòi, tổ chức một nhà nước và cơ chế hoạt động như thế nào để thể hiện, đảm bảo
và thực sự phát huy vai trò, hiệu lực làm chủ của nhân dân. Chẳng hạn như: xây
dựng và tổ chức hoạt động của quốc hội như thế nào, để khi họp, bàn bạc, biểu
quyết và đi đến quyết định phải thể hiện được sự thống nhất ý chí, nguyện vọng,
lợi ích của nhân dân,...; nhất là, tổ chức bầu cử quốc hội như thế nào để đảm
bảo dân chủ thực sự, thống nhất lòng dân và sự lãnh đạo của Đảng; Đảng lãnh đạo
xây dựng pháp luật nhưng các tổ chức đảng và đảng viên đều phải hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; Đảng lãnh đạo cơ quan tư pháp, xét xử, nhưng
phải đảm bảo quyền độc lập của cơ quan xét xử;... Đây là những vấn đề phức tạp,
chưa có tiền lệ mà thực tiễn cuộc sống đang đặt ra, đòi hỏi chúng ta phải giải
quyết có hiệu quả.
Tổ chức nhà nước kiểu mới, gắn mật thiết với xây
dựng nền dân chủ mới. Đó là nền dân chủ của đa số người dân, trước hết là của
nhân dân lao động. Nền dân chủ mà nhân dân ta đang xây dựng là nền dân chủ
XHCN, ở đó quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mọi hoạt động của công dân đều
phải tuân thủ pháp luật, theo quyết định của đa số. Tuy nhiên, ý kiến của thiểu
số sẽ được bảo lưu, nếu thực tiễn kiểm nghiệm đúng thì sẽ được vận dụng vào
thực tế; nhưng để tổ chức nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì vẫn phải theo
quyết định của đa số. Tổ chức một nền dân chủ như thế phải rất tỉ mỉ, cụ thể.
Từ trình độ nước kém phát triển, nhân dân ta chưa trải qua nền dân chủ tư sản
mà bước thẳng lên nền dân chủ XHCN, thì không khỏi lúng túng, bỡ ngỡ, khó khăn.
Vì vậy, việc xây dựng nền dân chủ XHCN của nước ta cần thời gian không ngắn,
cần trải nghiệm nhiều hình thức, nhiều bước đi để chọn lọc những yếu tố hợp lý,
trình độ dân chủ được mở rộng, thấm sâu, dần dần, trên cơ sở phát triển kinh tế
và văn hóa của nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất được lịch sử,
nhân dân và dân tộc giao phó sứ mệnh lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội, thì tổ
chức nền dân chủ mới ấy càng là một quá trình tìm tòi, sáng tạo để từng bước
thực hiện có hiệu quả phương thức: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí, nhân dân
làm chủ.
Trên đây là những nội
dung kinh tế, chính trị chủ yếu, đặc trưng của TKQĐ lên CNXH. Bên cạnh đó, còn
có những nội dung khác nữa, trong đó có cả những nội dung không đặc trưng cho
TKQĐ, mà có ở mọi thời kỳ lịch sử của đất nước, như về quốc phòng, an ninh...
Tuy vậy, kinh nghiệm mấy chục năm qua cho thấy, ngay nội dung bảo vệ Tổ quốc
cũng có dấu ấn của TKQĐ cả về nội dung, phương thức. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay
của chúng ta còn là bảo vệ Đảng, bảo vệ con đường XHCN, chống “Diễn biến hòa
bình”.v.v.
Những nội dung kinh tế, chính trị của TKQĐ
lên CNXH không tồn tại biệt lập mà tác động qua lại. Trình độ xây dựng nhà
nước, quản lí nhà nước; trình độ xây dựng và phát huy nền dân chủ XHCN ảnh
hưởng trực tiếp đến những diễn biến kinh tế và những động lực phát triển kinh
tế. Trình độ phát triển kinh tế lại làm cơ sở vững chắc cho nền chính trị mới.
Nhận thức tự giác nội dung kinh tế, chính trị của TKQĐ lên CNXH, chúng ta cần
có những giải pháp phù hợp để thúc đẩy TKQĐ đi lên CNXH. Giải pháp ở đây là
theo nghĩa rộng, là vai trò của yếu tố chủ quan, là phát huy tính năng động chủ
quan trong đề ra những chủ trương, chính sách và phương thức tổ chức thực tiễn
có hiệu quả.
CNXH, về thực chất là sự nghiệp có tính chất kinh tế, nên
giải pháp trước hết, quan trọng hàng đầu là đưa ra những hình thức kinh tế quá
độ (KTQĐ) phù hợp với những đặc trưng của TKQĐ lên CNXH. Hình thức KTQĐ là hình
thức trung gian giữa CNTB và CNXH, vận động theo định hướng XHCN. Lựa chọn hình
thức KTQĐ về thực chất là lựa chọn hình thức, bước đi quá độ về QHSX, mà QHSX,
theo Ph. Ăng-ghen, là biểu hiện trước hết ở lợi ích kinh tế. Vì thế, lựa chọn
hình thức KTQĐ là lựa chọn một hợp lực về lợi ích kinh tế, một sự giao
thoa về lợi ích kinh tế phù hợp, không còn lợi ích hoàn toàn TBCN, nhưng cũng
chưa phải lợi ích XHCN đầy đủ; qua đó, tạo động lực hợp lý thúc đẩy phát triển
kinh tế. Trong hình thức KTQĐ, CNTB không chống lại CNXH; mà nó tích cực “cày
trên luống cày của CNXH”; còn CNXH sử dụng một số mặt hợp lý của CNTB để phát
triển kinh tế, thậm chí người lao động có cơ hội học cách quản lý có hiệu quả
của các chuyên gia tư sản. Những hình thức KTQĐ là những nấc thang tạo nên sự
chín muồi dần của CNXH cả về phương diện LLSX và QHSX. Hình thức KTQĐ cũng là
biểu hiện dân chủ có lãnh đạo trên lĩnh vực kinh tế, giúp nhân dân từng bước
tiếp thu, giác ngộ XHCN một cách vững chắc.
Ở nước ta hiện nay, thị trường định hướng XHCN là hình
thức KTQĐ tổng quát, bao trùm. Nó không phải thị trường TBCN, mà cũng chưa phải
là thị trường XHCN đầy đủ. Thị trường định hướng XHCN là một thực thể, một tồn
tại, những yếu tố của thị trường và tác động của những quy luật thị trường đều
có tính đặc thù đòi hòi khách quan, phù hợp với đất nước, xã hội đang quá độ đi
lên CNXH. Các chính sách cũng như các hoạt động khác phải được nhà nước quản
lý; nhà nước phải vận dụng tốt yêu cầu khách quan quá độ đó. Chẳng hạn, giá cả
lên xuống theo quan hệ cung cầu; tuy nhiên, nhà nước có những biện pháp để giá
cả không hoàn toàn tự phát, nhằm giảm bớt khó khăn, ổn định và cải thiện đời
sống nhân dân. Biện pháp của nhà nước không phải là xóa bỏ quy luật cung cầu
(và cũng không thể xóa được quy luật khách quan đó), cũng không phải chủ yếu
bằng biện pháp hành chính mà chủ yếu bằng biện pháp kinh tế thông qua thực lực
của kinh tế nhà nước và các công cụ kinh tế để điều chỉnh quan hệ cung cầu, góp
phần điều tiết giá cả trên thị trường. Không nên hiểu chỉ trong thị trường TKQĐ
mới có quy luật cung cầu còn trong thị trường XHCN đầy đủ thì không có quy luật
cung cầu. Vấn đề là ở chỗ, cường độ hoạt động và tương tác giữa quy luật cung
cầu và quy luật cân đối có kế hoạch thì có sự khác nhau trong TKQĐ và khi CNXH
được xây dựng xong.
Đời sống kinh tế nước ta đang cho thấy doanh nghiệp cổ
phần là hình thức KTQĐ phổ biến, đặc sắc, điển hình; trong đó có các doanh
nghiệp hỗn hợp sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân. Dù kinh tế nhà nước chi
phối hay không chi phối, thì doanh nghiệp cổ phần loại này đều thể hiện không
thuần túy là kinh tế nhà nước hay kinh tế tư nhân. Nó thực sự là hình thức kinh
tế trung gian, nhưng dưới sự quản lý của nhà nước, do Đảng Cộng sản lãnh đạo,
thì xu hướng vận động của nó không theo con đường TBCN, mà tiệm tiến lên CNXH.
Trong doanh nghiệp cổ phần loại này, có sự dung hợp lợi ích nhà nước và lợi ích
tư nhân; đặt trong chế độ XHCN, nó trở thành động lực mạnh mẽ để phát triển
kinh tế. Thực tiễn đã chỉ ra, nếu trong TKQĐ lên CNXH mà chỉ chú trọng lợi ích
nhà nước, thì không có động lực trực tiếp; trái lại, nếu chỉ chú trọng lợi ích
tư nhân thì không còn là CNXH nữa. Đương nhiên, vẫn có những doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước, theo đó nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt của nền kinh tế
quốc dân; những doanh nghiệp 100% vốn tư nhân, theo đó chịu sự kiểm kê, kiểm
soát của nhà nước XHCN. Kinh nghiệm xây dựng CNXH ở nước ta (từ 1975 đến 1986)
cho thấy, sự chủ quan duy ý chí và bước đi nóng vội, bỏ qua những hình thức quá
độ trung gian, đã không thành công. Thực tiễn 25 năm tiến hành công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng (1986-2010) cho ta bài học
quý giá: hình thức quá độ trung gian là sự chọn lựa đúng đắn, đảm bảo cho nền
kinh tế nước ta phát triển nhanh, bền vững.
TKQĐ lên CNXH ở nước ta dài hay ngắn tùy thuộc một phần
quan trọng vào tính năng động chủ quan của chúng ta; làm đúng, làm tốt thì thời
gian ngắn, làm dở thì sẽ kéo dài. Xuất phát từ thực tiễn, vận dụng lý luận,
tổng kết thực tiễn, vững vàng nguyên tắc, linh hoạt trong hình thức, bước đi,
là một trong những chìa khóa đưa sự nghiệp xây dựng CNXH của Đảng và nhân dân
ta đến thành công.
VŨ HỮU NGOẠN
Nguyên Phó Viện trưởng Viện Mác -
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh