Thứ Năm, 30 tháng 6, 2016

THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ NGUYỄN XUÂN PHÚC: KHÔNG VÌ KINH TẾ MÀ HY SINH MÔI TRƯỜNG

          Đó là khẳng định của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc lúc đầu giờ sáng 1-7 tại cuộc họp trực tuyến của Chính phủ với lãnh đạo 63 tỉnh, thành.
          Liên quan đến việc khắc phục hậu quả sau sự cố Formosa xả thải gây ảnh hưởng nghiêm trọng môi trường biển, đến sinh kế của người dân, Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Cao đề nghị phải xem xét hỗ trợ tất cả những người bị ảnh hưởng.
          “Trước hết là ngư dân đánh bắt gần bờ thường nằm tại các xã ven biển do không có đất sản xuất nên không chuyển sang các hình thức sản xuất nông nghiệp khác, đề nghị Chính phủ có chính sách cho chuyển đổi sang đóng tàu để đánh bắt xa bờ hoặc tăng cường xuất khẩu lao động, tháo gỡ một phần khó khăn cho họ” -  ông Cao nói.
          Vẫn theo Chủ tịch tỉnh Thừa Thiên -  Huế, “ngoài ngư dân thì các cơ sở du lịch cũng ảnh hưởng lớn, đặc biệt nhiều nhà đầu tư mới xây dựng xong cơ sở du lịch. Đề nghị có chính sách tín dụng, giảm thuế giúp các nhà đầu tư vượt qua khó khăn, bởi nhiều cơ sở du lịch khách đăng ký nhưng đã hủy hết từ khi xảy ra sự cố đó”.
          Đề cập đến vấn đề này, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc khẳng định để buộc Formosa nhận trách nhiệm và chấp nhận bồi thường số tiền 11.500 tỷ đồng, thời gian qua Chính phủ đã chỉ đạo các cơ quan chức năng làm việc bài bản, khoa học, đảm bảo đầy đủ chứng lý.
          “Kết quả đạt được là từ thái độ bình tĩnh, phương pháp tiến hành khoa học, khách quan, cẩn trọng của các cấp lãnh đạo và các nhà khoa học nói chung. Tôi đánh giá cao sự cố gắng nỗ lực của rất nhiều bộ, ngành, cơ quan chức năng” - Thủ tướng nói.
          Số tiền Formosa bồi thường sẽ được sử dụng như thế nào? Thủ tướng giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dự thảo chủ trương chính sách để cùng Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài nguyên - Môi trường giải quyết, sử dụng đạt hiệu quả cao nhất.
          Thủ tướng lưu ý cần hỗ trợ lâu dài về sinh kế cho ngư dân, chú trọng hỗ trợ theo hướng đầu tư cho chương trình đánh bắt xa bờ để mang lại hiệu quả dài lâu, bền vững hơn, đồng thời với kế hoạch phục hồi môi trường biển. Thủ tướng yêu cầu các cơ quan tập hợp báo cáo gửi Bộ Tài chính xây dựng kế hoạch sử dụng tiền đền bù, trình Chính phủ trong thời gian sớm nhất.
          Về hoạt động của Formosa, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh điều quan trọng nhất là sau sự cố này Formosa phải thực hiện đúng cam kết, không để tái diễn hành vi vi phạm.
          “Chúng ta khẳng định nhất quán quan điểm phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường. Không vì phát triển kinh tế, vì thu hút đầu tư mà bỏ qua môi trường, nhất là môi trường sống của người dân, không vì kinh tế mà hi sinh môi trường” - Thủ tướng nhấn mạnh.


BÀN VỀ TRÀO LƯU “LỆCH LẠC THẦN TƯỢNG” TRONG GIỚI TRẺ HIỆN NAY

Cuộc sống hiện đại với sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp giải trí và sự phổ cập của Internet đã không ngừng làm thay đổi suy nghĩ và hành vi của con người. Trong một “thế giới phẳng” mà mọi hiệu ứng xã hội được lan truyền với tốc độ nhanh chóng thì việc định hướng, điều chỉnh các hiện tượng tiêu cực đang xảy ra có ý nghĩa to lớn trong việc quản lý xã hội, đặc biệt là đối với những trào lưu đang diễn ra trong thế hệ trẻ hiện nay trước làn sóng xâm nhập của văn hoá nước ngoài. Một trong những hiện tượng cần quan tâm đối với các nhà làm công tác giáo dục, văn hoá chính là trào lưu “lệch lạc thần tượng” trong một bộ phận giới trẻ đang dần trở thành một vấn đề đáng lo ngại.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt (tái bản, sửa chữa và bổ sung năm 2008) do tác giả Nguyễn Như Ý chủ biên (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành Phố Hồ Chí Minh), thần tượng được hiểu theo 3 nghĩa: Thứ nhất, thần tượng là hình ảnh hoặc người đã chết. Thứ hai, thần tượng là hình ảnh của một đấng thiêng liêng được tôn sùng, đề cao. Thứ ba, thần tượng là người hay vật được đề cao, tôn sùng. Tuy nhiên, thực tế trào lưu chạy theo “thần tượng” diễn ra trong giới trẻ hiện nay đang khác xa so với khái niệm trong từ điển. Và từ trào lưu tiêu cực đó dẫn đến sự lệch chuẩn về nhân cách trước những yêu cầu, đòi hỏi của chuẩn mực đạo đức xã hội.
Thông qua tìm hiểu các diễn đàn, các loại hình báo chí, dư luận xã hội hiện nay không khỏi bức xúc trước những phát ngôn gây “sock” của một bộ phận giới trẻ khi “đánh rơi” những tình cảm thiêng liêng đối với gia đình, người thân chỉ vì sự mê cuồng của mình đối với các ca sĩ, diễn viên nước ngoài… Tại sao một bộ phận giới trẻ lại có sự hâm mộ nghệ sĩ nước ngoài đến “điên cuồng” như vậy? Phải chăng trào lưu “lệch lạc thần tượng” là do lỗi của họ? Chúng ta cùng nhìn nhận trào lưu này theo những khía cạnh khác nhau để có một cái nhìn toàn diện về lối sống của bộ phận giới trẻ hiện nay trước sự tác động mạnh mẽ của những luồng văn hoá ngoại lai.
Trước hết, cần đi sâu tìm hiểu nguyên nhân của trào lưu “lệch lạc thần tượng” dưới góc độ của khoa học tâm lý. Trong quy luật đời sống tâm lý của con người, tình cảm của cá nhân đối với các sự vật, hiện tượng được hình thành từ những cảm xúc cùng loại. Nhìn lại quá khứ hào hùng của dân tộc, trong chiến tranh gian khổ, các nghệ sĩ - chiến sĩ cách mạng của chúng ta đã cho ra đời những tác phẩm đi cùng năm tháng. Những giai điệu mạnh mẽ, ca từ trong sáng, giàu sức biểu cảm đã tạo ra ở người nghe những cảm xúc tự hào, phấn khởi và dần dần hình thành trong họ một tình cảm tích cực, thôi thúc họ hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích chung của cả dân tộc. Ngược lại, với dòng nhạc thị trường như hiện nay, nhiều ca khúc với ca từ sáo rỗng, vô nghĩa nhưng được “đánh bóng” bởi những giọng hát mà thành công của nó phụ thuộc phần lớn vào kỹ thuật âm thanh điện tử và công nghệ lăng - xê. Điều đó làm cho một bộ phận người nghe có trình độ quay lưng với các ca khúc Việt Nam, đi tìm cái mới và họ dễ dàng nảy sinh tình cảm với những cái phù hợp với thị hiếu của họ là một điều tất yếu.
Một đặc điểm tâm lý lứa tuổi cần phải quan tâm khi nhìn nhận về trào lưu “lệch lạc thần tượng” hiện nay chính là nhu cầu tự khẳng định, cơ chế tâm lý bắt chước, chạy theo đám đông của giới trẻ. Giới trẻ luôn có xu hướng chạy theo cái mới (kiểu tóc, trang phục…) của thần tượng để thu hút cái nhìn từ những người xung quanh với mong muốn tự khẳng định cái tôi. Hơn nữa, cơ chế bắt chước, a dua trong một nhóm, một bộ phận diễn ra một cách khách quan, nhanh chóng nếu không có sự định hướng thì dễ trở thành trào lưu trong cộng đồng, xã hội. Đây là những đặc trưng tâm lý mang tính khách quan trong sự phát triển cá thể. Sống có thần tượng là một nhu cầu trong đời sống tinh thần của thanh niên. Điều đó đòi hỏi chúng ta cần phải lưu tâm để tránh cái nhìn phiến diện, tiêu cực khi cố tình lý giải hiện tượng lệch lạc trên là do lỗi của giới trẻ. Vậy dưới góc độ xã hội học, hiện tượng trên được tiếp cận theo những khía cạnh như thế nào?
Nhìn vào thực tiễn ngành công nghiệp giải trí để thấy được những “góc tối” của tác động tiêu cực từ chính lối sống, cách tạo dựng hình ảnh của một số nghệ sĩ nước nhà, cũng như “mặt trái” các game show giải trí hiện nay. Khi sự thành công không thể đạt được bằng chính khả năng và sức cống hiến của bản thân, với một số nghệ sĩ, muốn được nổi tiếng, họ tìm mọi cách tạo scandal để được báo chí nhắc tới nhiều nhất. Có thể là những hành động vô duyên trên sân khấu, có thể là những trang phục lố lăng, lối sống “vương giả”, hưởng thụ, lãng phí… Tất cả được tạo ra một cách vô tình hay cố ý để gây ra sự chú ý của khán giả. Nhưng điều đó lại gây phản ứng ngược, tạo ra sự phản cảm, họ ngày càng mất niềm tin đối với người thưởng thức. Chúng ta thử hình dung, nếu như giới trẻ Việt Nam thần tượng đến mức chạy theo, mặc theo những mẫu trang phục sexy như Thu Minh; hay sống thực dụng như phát ngôn của người đẹp “chân dài, óc ngắn” Ngọc Trinh; lối sống sa đoạ của Vàng Anh đã từng “vang bóng một thời”… thì sẽ ra sao? Liệu lúc đó chúng ta sẽ suy nghì gì về “diện mạo” mới của một lớp thế hệ thanh niên - người làm chủ tương lai nước nhà?
 Thực tế hiện nay cho thấy, phần lớn tin tức giới trẻ thu nhận được chủ yếu thông qua các trang báo mạng, các diễn đàn xã hội… Nhưng với lối câu khách như hiện nay của một số trang báo mạng thì thật đáng lên án và cần được quản lý chặt chẽ. Dạo qua các tiêu đề gây “sock”, thật hiếm thông tin, hình ảnh về những sinh viên nghèo vượt khó, những chiến sĩ đang canh gác ngày đêm vì sự bình yên của Tổ quốc… mà chủ yếu là những dòng “tít” giật gân, gây chú ý về các vụ hiếp dâm, giết người, về lối sống hưởng thụ, giàu có của các nghệ sĩ… Chính điều đó đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến nhận thức, lối sống của thế hệ trẻ. Họ cảm thấy tương lai thật bi quan, mất phương hướng, thậm chí mất niềm tin vào chính bản thân mình. Thật không khỏi bàng hoàng trước suy nghĩ của một cô bé học sinh cấp 3 khi cho rằng : Một số ngôi sao nổi tiếng có bằng cấp gì đâu mà vẫn có cuộc sống giàu sang, vẫn được nhiều người ngưỡng mộ… Với tư duy như vậy, liệu cô nữ sinh đó có còn sức mạnh để vượt qua những khó khăn trên con đường học vấn, trước những khó khăn trong cuộc sống tương lai hay không?
Khi trào lưu “lệch lạc thần tượng” gây nên sự ồn ào trong dư luận xã hội, nhiều ý kiến đã được đưa ra để lý giải cho tình trạng xuống cấp trong lối sống nói chung, về sự phát “cuồng” của một bộ phận giới trẻ nói riêng. Có nhận xét cho rằng: Sự phát triển về mặt kinh tế, đời sống vật chất được đáp ứng đầy đủ nên giới trẻ “nổi loạn”, đua đòi làm nảy sinh những hiện tượng tinh thần phi văn hoá như vậy. Hãy khoan không bàn đến sự đúng, sai trong nhận xét trên, nhưng nếu một lần được nhìn thấy hình ảnh của một cậu bé 9 tuổi kiên nhẫn đứng xếp hàng để đợi đến lượt mình nhận phần lương thực trợ giúp trong cơn thảm họa kép tại Nhật Bản năm 2011 vừa qua thì chúng ta không khỏi khâm phục và xúc động trước hành động cao đẹp đó của một đứa bé ở đất nước có nền kinh tế phát triển hơn chúng ta nhiều lần. Hình ảnh đó gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh đối với các nhà quản lý xã hội, các nhà làm công tác giáo dục, văn hoá ở nước ta hiện nay đó chính là vấn đề định hướng giá trị nhân cách cho giới trẻ trong tình hình mới.
Định hướng giá trị là quá trình giáo dục có mục đích nhằm hình thành ở cá nhân những phẩm chất nhân cách phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội, của thời đại. Định hướng giá trị sẽ giúp người trẻ có đủ trình độ nhận thức, bản lĩnh để lựa chọn và hành động vươn tới những hình mẫu lý tưởng cao đẹp, trong sáng. Cũng thông qua quá trình định hướng giá trị nhân cách giúp người trẻ có khả năng thích ứng, hội nhập với xu thế của thời đại nhưng không đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc, biết vươn lên tiếp thu văn hoá nước ngoài nhưng không đánh mất đi chính mình. Điều đó cần có sự chung tay của gia đình, nhà trường và toàn xã hội. Nghĩa vụ và trách nhiệm của thế hệ đi trước là xác lập mô hình nhân cách, giáo dục, rèn luyện để hình thành, phát triển nhân cách thế hệ trẻ theo yêu cầu của xã hội hiện tại và tương lai. Vẫn biết con người luôn chịu sự tác động của điều kiện xã hội - lịch sử, nhưng thật tự hào vì trong những năm,  tháng khó khăn của dân tộc, chúng ta vẫn hình thành ở thanh niên lúc bấy giờ một niềm tin mãnh liệt, tạo ra sức mạnh to lớn để thực hiện lý tưởng cao cả bằng những thần tượng trong sáng, đời thường qua hình ảnh về tấm gương hy sinh của Phan Đình Giót, Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thuỳ Trâm... Lệch lạc thần tượng chính là một biểu hiện trong sự lệch lạc nhân cách con người. Và điều đó vô cùng nguy hiểm khi nó trở thành một trào lưu tiêu cực trong xã hội. Khắc phục hiện tượng “lệch lạc thần tượng” trong giới trẻ hiện nay cần có sự định hướng, tổ chức và điều hành của các nhà làm công tác quản lý xã hội, đặc biệt là của các nhà làm văn hoá, làm giáo dục và xin đừng đổ hết lỗi cho giới trẻ.

                                                                     Lê Anh Dũng

HÌNH THÀNH LÝ TƯỞNG SỐNG CHO THANH NIÊN HIỆN NAY


Thanh niên dù ở thời kỳ nào cũng là lực lượng tràn đầy nhiệt huyết, nhạy cảm, dễ thích nghi và luôn có xu hướng chạy theo những trào lưu mới. Tuy nhiên, không thể vì thế mà ta nghi ngờ họ có tư tưởng buông xuôi, thờ ơ với các vấn đề chính trị - xã hội hoặc quay lưng với truyền thống, với lịch sử. Trong những ngày đau thương vừa qua, khi dân tộc mất đi một vị anh hùng vĩ đại - Đại tướng Võ Nguyên Giáp, chúng ta không khỏi nghẹn ngào trước tình cảm của cả dân tộc ta đối với Đại tướng và đặc biệt là tình cảm của giới trẻ - những thế hệ sinh ra và lớn lên trong hoà bình, trong điều kiện vật chất, tinh thần đầy đủ, đa dạng. Điều đó là minh chứng rõ nhất cho sự thuyết phục, cảm hoá con người của một nhân cách vĩ đại, một hình mẫu lý tưởng. Và để những hình mẫu lý tưởng như vậy được phổ biến và nhân rộng, trở thành động lực mạnh mẽ thúc giục thế hệ trẻ vươn lên tâm cao mới đòi hỏi cần phải hình thành lý tưởng sống cao đẹp cho thanh niên trong một xã hội chịu nhiều tác động phức tạp, đa chiều như hiện nay.
Nói đến lý tưởng là nói đến sức cảm hoá của một hình mẫu nhất định có sức hấp dẫn, cảm hoá, khiến chủ thể giác ngộ và làm theo một cách tự giác. Lý tưởng là những hình ảnh cao đẹp, những giá trị chuẩn mực có tác dụng lôi cuốn, kích thích toàn bộ hoạt động của con người vào việc hiện thực hoá những mục tiêu, hình mẫu chuẩn mực đó trong một thời gian xác định. Lý tưởng không phải là một điều gì đó thần bí, cao siêu mà không thể đạt tới. Khi xác định được hình mẫu lý tưởng sẽ tạo nên động lực từ bên trong định hướng, thúc đẩy con người không ngừng vươn tới những hành động và nghĩa cử cao đẹp. Điều này thể hiện tính hai mặt của lý tưởng. Một mặt, lý tưởng mang tính chất lãng mạn, là sự ảnh hưởng của những hình tượng cao đẹp vào trí óc con người như nhân cách vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, một mô hình xã hội tốt đẹp… Nhưng, mặt khác, để lý tưởng không trở thành “ảo tưởng”, lý tưởng phải gắn liền với hiện thực và được cụ thể hóa bằng từng hành động trong cuộc sống hàng ngày. Đồng thời, ta thấy lý tưởng có tính chất tương ứng, lý tưởng cao đẹp không thể tách rời những nghĩa cử, hành động chính nghĩa, cao thượng. Vì vậy, đòi hỏi mỗi cá nhân phải dám dấn thân, cống hiến và khẳng định chính mình nhằm từng bước đạt được mục đích đã định. Bên cạnh đó, quá trình vươn tới hình mẫu lý tưởng, con người phải phấn đấu, tôi luyện trong một thời gian dài, do đó, mỗi cá nhân cần đặt ra cho chính mình những mục đích cụ thể và học cách hài lòng với những thành quả đạt được trong từng giai đoạn nhất định. Để đạt được điều đó, đòi hỏi sự rèn luyện, tu dưỡng bản thân không ngừng nghỉ, sự kiên trì, vì khi mục tiêu dần định hình đồng nghĩa với khó khăn ngày càng tăng lên. Lý tưởng ở đây như những bậc thang đi lên của sự phát triển, hoàn thiện một mẫu hình mà bản thân cá nhân chưa đạt được trong hiện tại, cần phải chiếm lĩnh hình mẫu lý tưởng đó trong một thời gian dài. Do vậy, lên cao, đuối sức không thực hiện đến cùng sẽ là lý tưởng nửa vời; hoặc nếu không kiên định con đường đã chọn, rẽ sang hướng khác, sẽ làm chệch hướng lý tưởng.
Lý tưởng là mục tiêu cao đẹp và để đạt được cái đích đó thì có nhiều cách thức, con đường khác nhau. Không thể lẫn lộn giữa mục tiêu đã xác định và cách thức hành động. Điều đó đòi hỏi mỗi cá nhân thể hiện nét văn hóa ứng xử đặc trưng trong quá trình thực hiện để đạt được mục tiêu đó. Để xác định con người hiện tại và mẫu hình lý tưởng cần vươn tới đòi hỏi sự phấn đấu không ngừng nghỉ để dần xóa đi khoảng cách. Nhưng không phải vì thế mà cá nhân chỉ tập trung vào những việc lớn lao mà quên đi những hành động nhỏ nhoi đời thường. Một nghĩa cử cao đẹp là một hành vi ứng xử có văn hóa, xuất phát từ những việc làm giản dị. Đó là tấm lòng hướng về đồng bào gặp khó khăn bằng những việc làm cụ thể; là giao tiếp lịch sự, biết lắng nghe và chia sẻ với mọi người, là học tập và cống hiến để thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu… Điều này đòi hỏi cá nhân phải có sự đấu tranh động cơ và trung thực với chính bản thân mình. Như vậy, sự quyết tâm của bản thân là yếu tố quyết định, có tính chất cộng hưởng cùng với môi trường xã hội thuận lợi tác động đến quá trình phấn đấu cho lý tưởng và điều chỉnh hành vi của con người.
Lý Tự Trọng - người thanh niên yêu nước tiêu biểu của dân tộc Việt Nam đã từng khẳng định: “…Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không thể có con đường nào khác”. Cách mạng là quá trình lâu dài, khó khăn và gắn liền với số đông, không thể chỉ là một vài cá nhân thực hiện. Một mặt, chúng ta xây dựng nên những hình mẫu chuẩn mực, đầy sức thuyết phục, cảm hoá. Mặt khác, cần kiên quyết đấu tranh chống lại sự phá hoại của không ít những phần tử phản động chống phá sự nghiệp cách mạng. Nếu như thế hệ cha, anh đã hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình là giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước thì thế hệ trẻ hiện nay có rất nhiều cơ hội để học tập, tiếp thu và vươn tới những hình mẫu lý tưởng cao đẹp, phù hợp với tình hình mới. Và trong bất cứ giai đoạn nào của lịch sử dân tộc, chúng ta đều có những cá nhân, tập thể có những đóng góp lớn lao cho xã hội, đất nước. Hiện nay, thật không khó để nhìn thấy những chiếc áo xanh tình nguyện tham gia vào mọi lĩnh vực khi xã hội cần. Cũng không hiếm những cá nhân bằng tài năng, trí tuệ của mình đem lại vinh quang cho Tổ quốc. Và càng tự hào biết bao về những tấm gương dám hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích của người khác, của tập thể… Tuy nhiên, sức ảnh hưởng, cảm hoá của những hình mẫu lý tưởng ấy vẫn còn chưa tương xứng với sự mong đợi của cả xã hội khi ta vẫn thấy còn nhiều hiện tượng tiêu cực trong giới trẻ như: trào lưu “lệch lạc thần tượng” khi tiếp thu văn hoá ngoại lai, biểu hiện vô cảm, tình trạng vi phạm pháp luật trong giới trẻ diễn ra phổ biến với tính chất, mức độ ngày càng nguy hiểm và phức tạp… Điều đó đòi hỏi các tổ chức Đoàn - với tư cách là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên cần hình thành lý tưởng sống cao đẹp cho thế hệ trẻ phù hợp với tính chất, đặc điểm của tình hình, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
 Nhận thức đúng đắn luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động của con người. Do vậy, để hình thành lý tưởng sống cho thanh niên, các tổ chức Đoàn cần đẩy mạnh hơn nữa công tác giáo dục nâng cao trình độ nhận thức về mọi vấn đề chính trị - xã hội đang diễn ra nhằm định hướng tư tưởng, hành động cho đoàn viên, thanh niên và là cầu nối đưa họ đến với tri thức và lý tưởng cao đẹp. Đồng thời, không ngừng đổi mới hình thức sinh hoạt Đoàn nhằm tập hợp đông đảo thanh niên hướng tới thực hiện những nhiệm vụ chung của xã hội, của dân tộc. Hiện nay, đa số các buổi sinh hoạt Đoàn còn nặng về hình thức, chưa có sức hấp dẫn, lôi kéo thanh niên tham gia một cách tự giác, tích cực và chủ yếu vẫn là các thành viên trong một tổ chức chính trị - xã hội nhất định. Với đặc điểm lứa tuổi thanh niên là luôn muốn được sống theo thần tượng của mình, do vậy, tổ chức Đoàn cần biết động viên, lôi kéo các cá nhân là nghệ sĩ, du học sinh nước ngoài… - những thanh niên có trí thức, tài năng và đạo đức tham gia sinh hoạt Đoàn để giao lưu, thu hút, cổ vũ thanh viên vươn lên trong cuộc sống. Sức cảm hoá, lôi kéo thanh niên bằng chính lời nói và việc làm cụ thể của thần tượng sẽ có tác động to lớn đến nhận thức và hành động của giới trẻ. Cần lồng ghép việc tuyên truyền, định hướng giá trị gắn với những hoạt động mới mẻ, sôi động gắn liền với nhu cầu, sở thích của giới trẻ. Hình thức tác động đó cùng với nội dung sinh hoạt phù hợp với tâm lý lứa tuổi sẽ có tác dụng tập hợp đông đảo thanh niên tham gia, cùng với đó, nội dung giáo dục sẽ đi vào nhận thức của họ một cách nhẹ nhàng và để lại ấn tượng sâu sắc.
Bên cạnh đó, cần tạo điều kiện cho thanh niên được nói lên chính kiến, những trăn trở của mình… để mỗi chúng ta cùng nhìn nhận và tìm cách giải quyết những khó khăn còn vướng mắc. Đó là phản biện xã hội chứ không phải là phản động chính trị. Tôn trọng tinh thần phản biện các vấn đề xã hội là thực hiện một bước yêu cầu của sự phát triển xã hội, phát huy vai trò tích cực của thanh niên trong quá trình xây dựng một xã hội tiên tiến. Chúng ta không chính trị hóa lý tưởng thanh niên. Song, lý tưởng thanh niên trong thời đại mới phải gắn liền với lý tưởng cộng sản, hướng đến sự nhân đạo, dân chủ, công bằng, văn minh, thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang phấn đấu xây dựng.
Thực tế cho thấy, chúng ta không thể áp đặt, so sánh điều kiện xã hội - lịch sử của mấy chục năm về trước để áp đặt cho lối sống của thanh niên ngày hôm nay. Thế hệ thanh niên hôm nay tiếp bước cha, anh, thực hiện cách mạng theo con đường và nội dung khác, phù hợp với thực tiễn xã hội. Đó là cuộc cách mạng tấn công vào khoa học kỹ thuật, đấu tranh với đói nghèo, lạc hậu và bất bình đẳng xã hội. Điều đó cũng thể hiện mối quan hệ giữa lý tưởng thanh niên phù hợp với hơi thở của cuộc sống hiện tại. Thế hệ trẻ hôm nay, chúng ta hãy gạt bỏ cái tôi ích kỷ, cá nhân để hòa mình vào dòng chảy của lịch sử, tiếp nối truyền thống cha, anh, cùng nhau hướng tới và thực hiện những lý tưởng cao đẹp. Vẫn biết là khó khăn, phức tạp nhưng đúng như nhà văn Lỗ Tấn đã từng nói: “Ở trên đời làm gì có sẵn đường, người ta đi mãi mà thành đường đó thôi. Lý tưởng là một con đường đầy thử thách nhưng cũng lắm vinh quang. Và vinh quang sẽ đến với ai dám dấn thân, đi đến cùng mục tiêu, lý tưởng của mình để hoàn thiện nhân cách, sống có ích cho xã hội, trọn tình, trọn nghĩa trong cuộc sống”.
                                                          Lê Anh Dũng

HÌNH ẢNH NGƯỜI THẦY TRONG DÒNG CHẢY LỊCH SỬ DÂN TỘC

Trong bề dày văn hoá của dân tộc Việt Nam, bên cạnh những vị lãnh tụ, những danh tướng có công lớn trong quá trình chống giặc ngoại xâm, xây dựng đất nước, chúng ta không khỏi tự hào trước những đóng góp to lớn của các thế hệ nhà giáo trong việc khai sáng tâm trí, bồi dưỡng nhân tâm, phát triển nền giáo dục nước nhà. Có thể khẳng định, không một dân tộc nào mà ở đó, hình ảnh của người Thầy lại có ý nghĩa và tầm ảnh hưởng sâu rộng đến mọi tầng lớp nhân dân như ở dân tộc Việt Nam ta. Trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử, người Thầy luôn giữ một vị trí quan trọng và đồng thời, hình mẫu ấy luôn có xu hướng biến đổi cùng với sự tiến bộ của thể chế chính trị - xã hội mà cả dân tộc ta không ngừng đấu tranh và dựng xây.
Với truyền thống hiếu học, “tôn sư trọng đạo”, trong bất cứ chính thể nào, người Thầy luôn luôn tiêu biểu cho tầng lớp trí thức, tiên tiến được cả cộng đồng xã hội công nhận và tôn kính. Tuy nhiên, ứng với mỗi bước đi của sự phát triển xã hội, vai trò, nhiệm vụ của người Thầy ngày càng được nâng lên một tầm cao mới. Nhìn lại hệ thống giáo dục thời Phong kiến, với mục đích đào tạo tầng lớp nho sĩ trí thức, quan lại trung thành với các triều đại, phục vụ ý chí của giai cấp thống trị lúc bấy giờ, một mặt, làm cho hình ảnh người Thầy trong xã hội được đề cao: “quân, sư, phụ” nhưng mặt khác làm cho mối quan hệ Thầy - trò mang tính chất phép tắc, phục tùng ngặt nghèo. Trường học nói chung và Thầy đồ nói riêng không có nhiệm vụ đào tạo nghề nghiệp mà chủ yếu truyền lại cho các thế hệ sau những tri thức và đạo lý làm người của cha, ông. Vốn học thức ấy không được mở rộng, phát triển mà dập khuôn từ đời này qua đời khác, chỉ cần nắm được những đạo lý đó sẽ trở thành công cụ duy nhất để xây dựng sự nghiệp của mình và tiến thân trong xã hội. Với mục đích lớn nhất là học để làm quan và thi hành chế độ khoa cử bảo thủ, việc truyền lại vốn tri thức cho các môn sinh được Thầy đồ tiến hành theo phương thức cổ điển: thầy giảng, trò ghi nhận cộng với học thuộc sách kinh điển; Thầy đóng vai trò chủ động, trò đóng vai trò thụ động (thụ giáo), lấy trí nhớ làm gốc mà không cần và không thể phát huy cái bản ngã cá nhân. Chính mục đích giáo dục, phương thức tiến hành như vậy mà vai trò của Thầy đồ có ý nghĩa quyết định đến sự thành đạt của các môn sinh. Nhân cách của những Thầy đồ có tâm, có tài sẽ tác động ảnh hưởng sâu sắc đến mọi tầng lớp và được cả xã hội nể trọng, tôn vinh.
Chiêm nghiệm lại những điều đã xảy ra trong tiến trình vận động của xã hội, chúng ta nhận ra một điều mà dường như đã trở thành chân lý: những nhà giáo chân chính, tâm huyết bao giờ cũng là nhà yêu nước, là những chiến sĩ cách mạng kiên trung, bất khuất. Hoạt động dạy học thường gắn liền với hoạt động cách mạng. Trong số những nhà giáo yêu nước, tiêu biểu là thầy giáo Nguyễn Tất Thành, sau này trở thành vị lãnh tụ vĩ đại muôn vàn kính yêu của dân tộc Việt Nam. Là Đại tướng Võ Nguyên Giáp - một thiên tài quân sự mà nếu không có chiến tranh, Ông đã tận tuỵ với vai trò của một thầy giáo dạy Sử… Điều đặc biệt có ý nghĩa hơn nữa là 4 đồng chí thay mặt cho các tổ chức Đảng Cộng sản dự Hội nghị hợp nhất để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 03-02-1930 tại Hương Cảng - Trung Quốc cũng đều là thầy giáo. Chính vì vậy, đồng chí Lê Duẩn đã có nhận xét: “Trong thời kì nước ta bị đô hộ, những người tri thức tâm huyết thường đi dạy học...”. Quần chúng rất quý trọng giáo giới, coi họ là những tinh hoa của dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước, tư tưởng cách mạng thông qua tầng lớp tri thức dân tộc đó mà đi vào quảng đại quần chúng nhân dân.
Lật lại trang sử đau thương của dân tộc, dưới ách thống trị, đô hộ của thực dân Pháp trong suốt tám mươi năm, với chính sách ngu dân để dễ bề cai trị đã làm cho hơn 90% dân số Việt Nam mù chữ. Chính vì vậy, ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi chống nạn thất học. Người nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tôi đề nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ.” Phong trào diệt giặc dốt, bình dân học vụ được phát triển rầm rộ và rộng khắp. Trong “Thư gửi anh chị em giáo viên bình dân học vụ” (tháng 5 - 1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hiệu triệu: “Anh, chị, em chịu cực khổ khó nhọc, hy sinh phấn đấu, để mở mang tri thức phổ thông cho đồng bào, để xây đắp nền văn hoá sơ bộ cho dân tộc. Anh, chị, em làm việc mà không có lương bổng, thành công mà không có tiếng tăm. Anh, chị, em là những người “vô danh anh hùng”. Tuy là vô danh nhưng rất hữu ích. Một phần tương lai của dân tộc nước nhà nằm trong sự cố gắng của anh, chị, em”. Với sứ mệnh của mình, anh, chị em giáo giới không ngừng cùng với mọi tầng lớp nhân dân nhanh chóng xoá nạn mù chữ, nâng cao trình độ dân trí để thực hiện mục tiêu chung của toàn dân tộc. Trong thư gửi hội nghị giáo dục toàn quốc (tháng 7 - 1948), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những ý kiến sâu sắc nhằm đổi mới chương trình cũng như cách dạy để đào tạo ra đội ngũ nhân tài phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Dưới ánh sáng của Đảng, sự giác ngộ cách mạng, thế hệ các nhà giáo đã cùng với cả dân tộc đóng góp công sức của mình vào sự nghiệp chung, những nhà giáo ưu tú đã trở thành những chiến sĩ cách mạng. Đội ngũ nhà giáo đã thực sự trở thành lực lượng nòng cốt trong việc khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí quật cường cho lớp lớp học sinh, sinh viên “Xếp bút nghiên lên đường đánh giặc”. Cùng với sự cố gắng của toàn dân tộc, các Thầy, Cô giáo đã đóng góp công sức to lớn cho sự nghiệp đấu tranh, thống nhất đất nước. Các Nhà giáo cách mạng là những tấm gương sáng một lòng vì Đảng, vì dân, trước khó khăn không chùn bước, trước kẻ thù thì hiên ngang, bất khuất. Hình ảnh những người giáo viên nhân dân với vũ khí là tri thức, chiến trường là “bục giảng dưới hầm sâu” đã in sâu vào các tác phẩm nghệ thuật, vào lịch sử, tạo nên những chiến công huyền thoại trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc.
Ngày nay, trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ nhà giáo ngày càng được nâng cao và mở rộng nhằm đáp ứng cho một nền giáo dục đổi mới toàn diện. Sản phẩm của sự nghiệp giáo dục - đào tạo trong giai đoạn hiện nay là những con người có phẩm chất, có trình độ, óc sáng tạo, biết dự kiến và có năng lực tổ chức, thực hiện hiệu quả những tình huống mà thực tiễn đặt ra. Vì vậy, trong quá trình giáo dục - đào tạo, đòi hỏi phải phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, phải rèn luyện cho họ phương pháp tự nghiên cứu, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp tự học suốt đời. Mục tiêu, yêu cầu đào tạo thay đổi đòi hỏi phương pháp dạy học cũng có sự đổi mới cho phù hợp, từ chỗ lấy người dạy là trung tâm nay chuyển sang lấy người học làm trung tâm của quá trình dạy - học. Phương pháp này đòi hỏi người Thầy không chỉ có kiến thức trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt về lĩnh vực mình đảm trách mà còn phải có phương pháp tổ chức quá trình học và tự học cho người học. Qua phương pháp này, người học không chỉ tiếp thu tri thức mà còn học được cách phát hiện vấn đề, giải quyết vấn đề, phương pháp khám phá chân lý… và đó chính là cơ sở để trau dồi, phát huy tính chủ động, sáng tạo trong quá trình hoạt động thực tiễn sau này. Như chúng ta đã biết, kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng của người học phụ thuộc rất nhiều vào trình độ lý luận và năng lực thực tiễn; phẩm chất đạo đức; phương pháp truyền đạt của người Thầy đối với người học. Vị trí, vai trò của người Thầy trên con đường lĩnh hội tri thức của người học là rất quan trọng. Tuy nhiên, nếu chúng ta tuyệt đối hoá vai trò của người Thầy sẽ dẫn đến phiến diện, chủ quan. Bởi trên thực tế, trình độ, kiến thức của người học có được không chỉ thông qua một con đường duy nhất - “người Thầy” mà nó được hình thành từ nhiều con đường khác nhau như: học ở sách vở, bạn bè, đồng nghiệp, xã hội, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua thực tiễn công tác… điều đó đòi hỏi người Thầy phải phấn đấu, rèn luyện để bước lên một tầm cao mới, tiến kịp với xu hướng phát triển của thời đại. Và đây chính là yêu cầu, đòi hỏi của một nền giáo dục trong thế kỷ bùng nổ tri thức và trong một “thế giới phẳng” như hiện nay.
Nhìn lại hình ảnh của người Thầy trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, chúng ta càng thêm tự hào và không ngừng phấn đấu để xây dựng nền giáo dục Việt Nam theo đúng định hướng của Đảng, đáp ứng với yêu cầu của sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Dù xã hội có nhiều biến động, dù ở đâu đó vẫn có một số ít cá nhân làm vấy bẩn lên danh dự của người Thầy, nhưng Nhà giáo vẫn là những người được tôn vinh, kính trọng, nghề giáo vẫn là nghề cao quý nhất trong tất cả các nghề cao quý. Ôn lại truyền thống, khắc ghi công lao của lớp lớp các thế hệ nhà giáo, chúng ta càng thêm trân trọng, biết ơn các Thầy, Cô giáo. Đội ngũ nhà giáo chính là những chiến sĩ cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, và đúng như lời dạy của Bác Hồ lúc sinh thời: “Người thầy giáo tốt xứng đáng là người vẻ vang nhất... Người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh.”

                                                                        Lê Anh Dũng


BÀN VỀ HIỆN TƯỢNG GIAO TIẾP ẢO TRONG GIỚI TRẺ HIỆN NAY

Trong xã hội hiện đại, sự bùng nổ của công nghệ - thông tin cùng với các ứng dụng kết nối cộng đồng phổ biến như Facebook, Twitter, Zalo… đã không ngừng thu hẹp khoảng cách giữa các cá nhân với nhau. Không thể phủ nhận lợi ích to lớn của phương tiện giao tiếp mạng mang lại nhưng nếu không biết cách sử dụng chúng một cách có kiểm soát, có mục đích tích cực thì vô hình chung, giao tiếp ảo gây ra nhiều hệ lụy khôn lường cho người sử dụng, đặc biệt là bộ phận giới trẻ hiện nay.
          Hệ lụy từ giao tiếp ảo
          Cuộc sống hàng ngày luôn diễn ra với muôn màu, muôn vẻ và giới trẻ là nhóm người thích ứng nhanh nhất với những trào lưu mới của xã hội. Thật không khó để bắt gặp hình ảnh các bạn trẻ ngồi tụ tập, nói chuyện với nhau nhưng mỗi người lại cầm trên tay chiếc điện thoại thông minh để lướt net, tán gẫu với người khác trên mạng. Hoặc thay vì việc tham gia các hoạt động tình nguyện xã hội, một bộ phận giới trẻ hiện nay tìm cách giải trí bằng việc ngồi một mình trong phòng, quán cafe để online và say mê với những con người trên thế giới ảo… Điều đó là một hiện tượng phổ biến trong cuộc sống hiện đại và chúng ta tôn trọng sở thích cá nhân, cá tính riêng của mỗi người. Tuy nhiên, nếu quá lạm dụng, giao tiếp ảo gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển và hoàn thiện nhân cách.
          Khủng hoảng niềm tin vào chính bản thân mình trong một bộ phận giới trẻ hiện nay là điều chúng ta dễ dàng nhận ra khi tiếp xúc quá nhiều và đắm chìm vào thế giới ảo. Trên các trang mạng xã hội, người sử dụng  thường đăng tải những hình ảnh về chuyến du lịch, tụ tập bạn bè, người thân ăn uống… và cũng thật không khó để ta bắt gặp những hình ảnh về lối sống hưởng thụ, vương giả của các cậu ấm, cô chiêu hay của những nghệ sĩ nổi tiếng… Đối lập với hiện tượng trên, xuất hiện phổ biến trên các mạng xã hội là những dòng status tiêu cực, những hình ảnh phản ánh mặt trái của cuộc sống, của xã hội… Tất cả những tác động từ lối sống hai chiều như vậy làm cho một bộ phận giới trẻ cảm thấy mình bị thua thiệt hoặc rơi vào suy nghĩ buông thả, oán trách số phận, bản thân. Nếu không làm chủ được cảm xúc, cá nhân dễ rơi vào trạng thái khủng hoảng niềm tin vào xã hội, vào những người xung quanh và chính bản thân mình.
          Trong thời gian gần đây, khi dư luận xã hội đang lên án, phê phán gay gắt hiện tượng vô cảm trong một bộ phận giới trẻ, đã có nhiều lý giải từ các chuyên gia tâm lý, nhà quản lý giáo dục, văn hoá. Có nhiều ý kiến cho rằng: Một trong những nguyên nhân dẫn tới hiện tượng trên là do giới trẻ lạm dụng tràn lan mạng xã hội để giao tiếp. Thực tế cho thấy, khi con người không trực tiếp giao lưu, trao đổi tâm tư, tình cảm với nhau thì khoảng cách giữa các cá nhân ngày càng xa và các mối quan hệ thực tế ngày càng mờ nhạt. Nếu như với những tiện ích làm tăng khả năng tìm kiếm, kết nối cộng đồng do mạng xã hội mang lại, chúng ta sử dụng một cách hợp lý, hiệu quả thì điều đó có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc thiết lập và vận hành các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, chính vì những dòng status, những hình ảnh mang tính chất tiêu cực, phản cảm lại thu hút một lượng lớn người quan tâm, theo dõi và làm cho cảm xúc tích cực của mỗi cá nhân trở nên chai dạn. Dần dần, những thói quen đó ảnh hưởng và quy định tính cách cá nhân. Họ rơi vào trạng thái bàng quan, thờ ơ với mọi điều xung quanh. Hiện tượng tâm lý này rất nguy hiểm ở chỗ, khi cá nhân vô cảm với thế giới bên ngoài, họ không thể chia sẻ nỗi đau, nỗi mất mát với đồng loại và tất yếu dẫn đến các vụ vi phạm pháp luật với tính chất nguy hiểm, ghê rợn ngày càng gia tăng trong lứa tuổi vị thành niên hiện nay.
          Giao tiếp là một trong những con đường cơ bản để hình thành, phát triển nhân cách con người. Thông qua giao tiếp, cá nhân trao đổi thông tin, tình cảm lẫn nhau và từ đó, cá nhân có sự so sánh với đối tượng giao tiếp. Nhờ đặc tính so sánh này, cá nhân ý thức được về mức độ đáp ứng của bản thân đối với yêu cầu, đòi hỏi của xã hội; đồng thời, có thể phán đoán thái độ của những người xung quanh để điều chỉnh bản thân cho phù hợp. Khi mỗi cá nhân sa đà với các mối quan hệ trên thế giới ảo, họ trở nên vụng về trong quá trình giao tiếp thực tế. Trước thực trạng các mối giao tiếp ảo trở thành một trào lưu và phổ biến trong bộ phận giới trẻ, quá trình trao đổi thông tin, cảm xúc - tình cảm trực tiếp giữa các cá nhân với cá nhân bị hạn chế; do vậy, sự hiểu biết, cảm thông và có những hành vi ứng xử phù hợp đối với nhau sẽ gặp nhiều khó khăn, giới trẻ mất dần kỹ năng giao tiếp thực tế, đặc biệt là dẫn đến trạng thái thờ ơ, lạnh nhạt và xa lánh nhau.
          Sử dụng mạng xã hội phù hợp, hiệu quả
          Cùng với việc phát minh ra máy tính, Internet, việc hình thành và cung cấp các ứng dụng giao tiếp xã hội thông qua đường truyền mạng đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ về khoa học, công nghệ của con người, góp phần giảm thiểu đáng kể về thời gian, chi phí trong quá trình trao đổi, giao lưu các mối quan hệ xã hội. Với việc sử dụng mạng xã hội, mỗi cá nhân có tầm nhìn rộng lớn hơn về thế giới, cuộc sống, có sự thuận lợi trong việc thỏa mãn nhu cầu giao tiếp. Tuy nhiên, trong một thế giới “phẳng” và xu hướng sống “ảo”, chạy theo trào lưu một cách không chọn lọc của bộ phận giới trẻ hiện nay thì những ý nghĩa tích cực của các phát minh trên đang bị giảm đi đáng kể. Thực tế, mạng xã hội không phải là nguyên nhân dẫn đến những hệ lụy như đã trình bày. Điều cốt yếu chính là ở việc sử dụng mạng xã hội một cách hữu ích, phù hợp, hiệu quả. Và tính tích cực, vai trò của mạng xã hội được phát huy ra sao phụ thuộc vào chính bản thân người sử dụng nó.
          Trước hết, mỗi người trẻ cần tích cực tham gia vào các hoạt động thực tế như học tập, lao động, hoạt động xã hội, các mối quan hệ gia đình, bạn bè gần gũi… thay vì ngồi thu mình say sưa và “chăm chút” cho các mối quan hệ trên mạng. Với những mối quan hệ thực tế, giới trẻ sẽ hiểu rõ hơn về cuộc sống thực tại, hiểu rõ hơn về những người xung quanh, về chính bản thân mình để có sự thay đổi, thích nghi cho phù hợp. Đồng thời, qua đó không ngừng giúp giới trẻ hình thành kỹ năng giao tiếp, góp phần phát triển và hoàn thiện nhân cách theo yêu cầu, đòi hỏi của xã hội.
          Thay vì đọc, chia sẻ những hình ảnh phản cảm, những dòng trạng thái tiêu cực, cộng đồng mạng cần hình thành văn hóa sử dụng mạng xã hội. Điều này thật khó bởi không gian mạng là của chung và mỗi cá nhân có quyền quyết định suy nghĩ, cảm xúc của cá nhân. Mỗi người sử dụng mạng xã hội hãy là một cá nhân có văn hóa trong việc tiếp nhận và phản biện các thông tin đưa ra; qua đó, tạo ra hiệu ứng tốt trong việc sử dụng và quản lý mạng xã hội, tránh hiện tượng a dua, bắt chước, chạy theo tâm lý đám đông. Đối với việc hình thành thói quen tích cực này trong cộng đồng mạng xã hội thì vai trò của gia đình, nhà trường, toàn xã hội có ý nghĩa quan trọng và tính chủ thể của mỗi cá nhân là yếu tố quyết định.
          Cần tự điều chỉnh thời gian sử dụng mạng xã hội một cách hợp lý. Giới trẻ chỉ nên coi mạng xã hội là một công cụ để giải trí, giao lưu bạn bè trong những khoảng thời gian nhất định. Tránh việc sử dụng mạng xã hội một cách tràn lan, dẫn đến lạm dụng. Đối với giởi trẻ, đây là lứa tuổi cần học tập, nâng cao trình độ về mọi mặt đáp ứng với nhu cầu ngày càng cao của xã hội hiện đại. Do vậy, tự mỗi cá nhân cần xây dựng cho mình thói quen sử dụng mạng xã hội một cách tích cực, phù hợp và hiệu quả.
          Đã có không ít những ý kiến lên án gay gắt và yêu cầu “đóng cửa” mạng xã hội. Thực ra đó là một điều thật phi lý. Bởi lẽ, cần nhận thấy rằng, mọi phát minh đều góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho chính bản thân con người. Mạng xã hội cũng là một phát minh lớn của khoa học hiện đại. Điều quan trọng là cách thức con người sử dụng và ứng phó với những mặt tiêu cực mà nó mang lại. Hơn nữa, lối sống chạy theo trào lưu xã hội là nét tâm lý khách quan của tuổi trẻ. Do vậy, các tổ chức, cá nhân cần có cái nhìn toàn diện, khách quan, tránh phê phán cực đoan, đổ lỗi và cốt yếu nhất, cần giáo dục, hình thành văn hóa sử dụng mạng xã hội trong bộ phận giới trẻ hiện nay.

                                                     Lê Anh Dũng

DÂN CHỦ TƯ SẢN KHÔNG THỂ ÁP ĐẶT

          Lợi dụng vấn đề “dân chủ” để chống phá Việt Nam là thủ đoạn được chủ nghĩa đế quốc, các thế lực thù địch sử dụng trong nhiều năm nay. Từ ngày đầu bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam, chính người đứng đầu nước Mỹ đã khẳng định: Việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam là để thúc đẩy Việt Nam chuyển hóa về dân chủ như các nước Đông Âu và Liên Xô trước đây.
          Để chuyển hóa dân chủ ở Việt Nam, các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền phủ định những nguyên lý căn bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, các chủ trương, chính sách và luật pháp của Nhà nước Việt Nam về dân chủ. Thực chất đó là sự phủ định những giá trị dân chủ đích thực (dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân; dân chủ là dân là chủ) mà bao lớp người lao động cùng toàn thể nhân loại đã kiên trì đấu tranh, xây dựng không biết mệt mỏi suốt hàng chục thế kỷ qua. Quyền dân chủ và những quyền con người ở Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước ta là: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; và hiện nay đã được khẳng định trong Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
          Không ai có thể phủ nhận một thực tế: Quyền con người là một giá trị phổ biến, có tính toàn cầu. Mặt khác, ai cũng thừa nhận, quyền con người còn là một giá trị lịch sử, gắn với điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc, mỗi khu vực trên thế giới. Quan niệm của phương Tây về lợi ích cá nhân và quan niệm của phương Đông về lợi ích của dân tộc, của cộng đồng là những quan niệm rất khác nhau, không thể áp đặt cho nhau. Chính vì vậy mà tuyên bố của Hội nghị Nhân quyền Thế giới tại Viên (Áo) năm 1993 cũng đã nêu rõ “cần phải tính đến các đặc thù quốc gia và khu vực cũng như những nền tảng khác nhau về văn hóa, lịch sử và tôn giáo của mỗi quốc gia trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người”… Ấy vậy mà, một số nước phương Tây, các thế lực thù địch và các cơ quan truyền thông, báo chí nước ngoài đã và đang dùng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” để áp đặt mô hình dân chủ tư sản vào các nước, dùng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác cũng như của Việt Nam.
          Trên các mạng thông tin điện tử và nhiều tài liệu, sách báo được truyền bá, tán phát trong các đối tượng công chúng, các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội chính trị không ngớt tán dương và ca ngợi dân chủ tư sản, dân chủ phương Tây, đồng thời xuyên tạc những giá trị độc lập, tự do và dân chủ mà bao thế hệ người Việt Nam đã đổ máu xương để giành lại, xây dựng như ngày hôm nay. Chúng đối lập Đảng Cộng sản Việt Nam với dân chủ, cho rằng chế độ một đảng tất yếu sinh ra “độc đoán chuyên quyền”, “bóp nghẹt dân chủ”. Chúng tô vẽ một bức tranh “ngột ngạt”, người dân bị “bóp mồm, bóp miệng” trong chế độ cộng sản. Chúng phủ nhận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khoét sâu những hạn chế yếu kém trong cơ chế, bộ máy và đội ngũ cán bộ nhà nước, để đi đến kết luận rằng, tình trạng mất dân chủ trong xã hội bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng và điều hành của Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Lợi dụng những quyền cơ bản mà Hiến pháp và pháp luật nước ta cho phép, chúng tuyên truyền, kích động những người nhẹ dạ, cả tin, thiếu hiểu biết về dân chủ và pháp luật đấu tranh, biểu tình chống chế độ, phản đối chính quyền. Bên cạnh đó, chúng còn ra sức gieo rắc các quan điểm, luận thuyết hay mô hình “dân chủ” của nước này, nước nọ mà chẳng qua cũng chỉ là mô hình dân chủ tư sản, hòng “câu nhử” những người kém hiểu biết. Chúng truyền bá mô hình chủ nghĩa xã hội dân chủ và cho rằng đó là sự lựa chọn tất yếu cho Việt Nam. Nhiều ý kiến, “góp ý”, “kiến nghị” phê phán nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, cho rằng nền dân chủ này “có vấn đề”, “đầy rẫy sai lầm, mâu thuẫn, lúng túng và bế tắc”, chỉ có thể bỏ đi chứ không thể sửa chữa, đòi Đảng Cộng sản Việt Nam chấm dứt sự độc quyền về chính quyền và quản lý. Theo những ý kiến này, lối thoát của Việt Nam là thực hiện dân chủ đa nguyên trên cơ sở “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”. Họ đòi ra báo chí tư nhân, thành lập các tổ chức chính trị đối lập. Một số cá nhân đã đứng ra thành lập các nhóm, các đảng phái đối lập và mong muốn đưa ra hoạt động công khai. Hầu hết các nhóm chính trị đối lập này đều hoặc mượn tên “dân chủ”, hoặc nhân danh “đại diện của nhân dân”, thực chất chỉ là một nhóm những kẻ phản động, cơ hội chính trị, bất mãn, thù hận với dân tộc, băng hoại về đạo đức, tha hóa về phẩm chất, hay thiếu hiểu biết hay suy thoái về chính trị, văn hóa hòng mưu đồ lợi ích cá nhân, khôi phục lại một thời “vàng son” cam tâm bám gót thực dân, đế quốc, chà đạp lên những lợi ích căn bản nhất của nhân dân và dân tộc; hay kích động nhân dân theo hướng làm “cách mạng” như lối “Mùa xuân Ả rập”, mà bản chất chỉ là làm náo loạn xã hội, thừa cơ “đục nước béo cò”…
          Mục tiêu cuối cùng của những tổ chức chính trị đối lập là tước bỏ, vô hiệu hóa sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thay thế chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa bằng chế độ dân chủ tư sản. Chúng không thèm biết và đếm xỉa gì tới quyền lợi của cả quốc gia. Dân tộc Việt Nam đã có truyền thống đấu tranh anh dũng, quật cường để giành lại độc lập, tự do, mưu cầu hạnh phúc mà mưu toan phá hoại chế độ xã hội tốt đẹp mà nhân dân ta đang xây dựng. Chúng muốn đẩy nước ta vào cảnh mất ổn định về chính trị, thậm chí là xung đột giữa các phe nhóm đối lập với chính quyền, tranh giành, đấu đá giữa các tổ chức, đảng phái để mưu đồ lợi ích riêng, thiết lập lại một chế độ bảo hộ cho kẻ giàu, đàn áp người nghèo. Đáng chú ý là vừa qua, các thế lực thù địch triệt để sử dụng bọn phản động người Việt lưu vong câu kết với bọn “đại diện cho tư tưởng dân chủ mới” ở trong nước chống phá nền dân chủ xã hội chủ nghĩa của nước ta. Chúng chi tiền, tạo dựng ngọn cờ, nhen nhóm các tổ chức để móc nối với các phần tử cơ hội chính trị trong nước hình thành mặt trận trong ngoài kết hợp để chống phá. Mưu đồ của chúng là dùng con bài dân chủ để hình thành một cơ sở xã hội cần thiết cho những cuộc nổi dậy, bạo loạn chính trị ở trong nước, tạo ra một kiểu “cách mạng hoa nhài” ở Việt Nam. Nhân dân ta quá hiểu rằng, các cuộc cách mạng màu xuất phát từ “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập” tất yếu sẽ dẫn đến tranh giành quyền lực, xúi giục quần chúng “cơm niêu nước lọ”, suốt ngày xuống đường biểu tình, đất nước loạn lạc và cát cứ triền miên, chứ không đưa người dân đến với nền dân chủ đích thực.
          Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân. Chuyên chính là cái khóa, cái cửa để phòng kẻ phá hoại”. Để giữ vững của quý báu nhất đó, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta cần không ngừng nâng cao trình độ văn hóa dân chủ hơn nữa nhằm đi đến sự hiểu biết tự giác, khách quan và khoa học về dân chủ, khẳng định dân chủ và nền dân chủ đích thực hiện nay ở nước ta chỉ có thể là dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc, lãnh đạo toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, cần không ngừng nâng cao cảnh giác, không để các luận điệu dân chủ tư sản và phản động làm lung lạc ý chí và quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh của mình; đồng thời tích cực tuyên truyền và vận động mọi người dân nêu cao ý thức dân chủ, phát huy dân chủ gắn liền với tuân thủ nghiêm kỷ cương, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
          Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập quốc tế, đất nước ta nói chung và đội ngũ cán bộ nhà nước nói riêng không thể tránh khỏi những sai lầm, vấp váp. Những biểu hiện vi phạm quyền làm chủ của nhân dân vẫn còn diễn ra ở một bộ phận công chức, cán bộ và có lúc, có nơi trở nên rất nghiêm trọng; hiện tượng suy thoái về tư tưởng chính trị, tham ô, tham nhũng và lãng phí, phân hóa giàu nghèo vẫn còn diễn ra ở nhiều nơi… Để khắc phục những vấn đề tiêu cực đó, không thể chỉ có một mình Đảng, Nhà nước, Chính phủ và các bộ, ngành làm được, mà cần phải có sự tin tưởng, đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ của toàn dân, toàn quân ta. Bên cạnh đó, với tư cách dân là chủ, chúng ta có trách nhiệm góp ý với Đảng, Chính phủ và các cơ quan Nhà nước để cho Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cải cách bộ máy nhà nước, cải cách hành chính, chống tham nhũng, lãng phí đi vào chiều sâu, ngày càng có hiệu quả, không ngừng bảo đảm các quyền và lợi ích của nhân dân như Hiến pháp và luật pháp đã quy định./.

                                      Tác giả: Đại tá, TS Nguyễn Văn Quang 

Thứ Ba, 21 tháng 6, 2016

VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

                Trước đây, đa số các ý kiến đều khẳng định: nước ta đang trải qua TKQĐ lên CNXH, chỉ khác trong cách đề cập những vấn đề về hình thức, bước đi và chính sách, trước hết là về kinh tế.
 Hiện nay, bối cảnh quốc tế và trong nước đã thay đổi nhiều, thậm chí khá sâu sắc, phức tạp. Mặc dù, chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống XHCN thế giới không còn, nhưng Việt Nam và một số nước vẫn kiên định con đường XHCN, tiến hành đổi mới và đã giành được những thành tựu quan trọng; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đang dần hồi phục. Tuy nhiên, các nước theo con đường XHCN, phong trào cách mạng thế giới vẫn đứng trước nhiều thách thức nghiêm trọng; các thế lực thù địch tìm mọi phương kế để đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, nhằm xoá bỏ CNXH.
                 Trong bối cảnh đó, với những lập trường và phương pháp luận khác nhau, ở nước ta, nhận thức về TKQĐ lên CNXH có nhiều khác biệt. Phần lớn trong Đảng và nhân dân ta đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động; có phương pháp nhận thức biện chứng, lịch sử, đã khẳng định: nhân dân Việt Nam luôn kiên định với con đường đi lên CNXH. Để thực hiện mục tiêu đó, nước ta phải trải qua TKQĐ, mà ở đó CNXH khoa học từng bước được xây dựng về mọi mặt. Trái lại, một thiểu số chịu ảnh hưởng của phương pháp nhận thức siêu hình, thì phủ nhận TKQĐ, thực chất là họ phủ nhận lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận con đường đi lên CNXH của nhân dân ta.
                 Nghiên cứu Học thuyết Mác, chúng ta thấy, tuy C. Mác không nói rõ về TKQĐ đi lên CNXH; nhưng trên cơ sở tổng kết lịch sử tiến hóa nhân loại, Học thuyết Mác đã chỉ ra: lịch sử xã hội loài người là sự phát triển từ thấp đến cao của các phương thức sản xuất (PTSX). PTSX Tư bản chủ nghĩa (TBCN) ra đời (tương ứng với nó là hình thái kinh tế-xã hội TBCN) là bước tiến lớn của nền sản xuất và đời sống nhân loại. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã tự tạo ra mâu thuẫn cơ bản - mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất (LLSX) có tính chất và trình độ xã hội hóa cao so với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất. Việc giải quyết mâu thuẫn đó làm cho xã hội tiếp tục phát triển, tất yếu dẫn đến sự ra đời PTSX Cộng sản chủ nghĩa (CSCN), tương ứng là hình thái kinh tế-xã hội CSCN. Và C. Mác cũng chỉ rõ, hình thái kinh tế-xã hội CSCN phải trải qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp (CNXH) và giai đoạn cao (chủ nghĩa cộng sản). Giai  đoạn đầu là TKQĐ lâu dài, ở đó vừa có kế thừa, phủ định biện chứng CNTB, vừa xây dựng những yếu tố của CNXH, đến khi xã hội mới hoàn toàn vận động trên cơ sở nền tảng của nó, thì chuyển dần lên chủ nghĩa cộng sản. Kế thừa, bổ sung và phát triển Học thuyết Mác, V.I. Lê-nin chỉ ra rằng: trong giai đoạn đầu, CNXH nhất thiết phải trải qua thời kỳ lịch sử đặc biệt, đó là TKQĐ từ CNTB lên CNXH. Và, khi kết thúc TKQĐ này thì CNXH với tính cách giai đoạn đầu của xã hội cộng sản được hình thành từ LLSX cho đến quan hệ sản xuất (QHSX), từ hạ tầng cơ sở cho đến thượng tầng kiến trúc. Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói về TKQĐ lên CNXH và đặc điểm không kinh qua giai đoạn phát triển TBCN để tiến theo  con đường XHCN. Như vậy, TKQĐ từ CNTB lên CNXH mang tính tất yếu, phổ biến đối với tất cả các nước theo chế độ XHCN, không phải là chủ quan áp đặt, mà  gắn liền với nội dung kinh tế và chính trị xác định .
Trước hết, về nội dung kinh tế-xã hội. Trong TKQĐ lên CNXH, kết cấu kinh tế-xã hội TBCN và kết cấu kinh tế-xã hội XHCN cùng chung sống, tác động qua lại, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, thống nhất đa dạng trong nền kinh tế do nhà nước tổ chức, quản lý. Nhà nước này là nhà nước pháp quyền XHCN, mọi quyền lực thuộc về nhân dân,  đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Ngày nay, ở nước ta, đó là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền kinh tế này tồn tại và phát triển lâu dài trong TKQĐ lên CNXH, nhất là trong điều kiện bỏ qua chế độ TBCN.
                Vậy, nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại bao lâu? Thực tế cho thấy, tuỳ theo diễn biến của lịch sử, điều kiện chủ quan và khách quan mà lịch sử sẽ làm sáng tỏ và trả lời dần câu hỏi phức tạp này. Trong xã hội mới, với sự quản lý, tổ chức của nhà nước XHCN, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, thì những nền tảng vật chất và tinh thần của CNXH từng bước được xây dựng và không ngừng lớn mạnh. Nói cách khác, PTSX XHCN bao gồm cả hai mặt LLSX và QHSX được xây dựng và phát triển, mà nòng cốt là LLSX hiện đại và chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu.
 Nước ta đi lên CNXH từ một nền kinh tế kém phát triển, bỏ qua chế độ TBCN, nên phải từng bước xây dựng LLSX hiện đại, đồng thời phải xây dựng QHSX phù hợp. Cho nên, mặc dù chúng ta có lợi thế của nước đi sau, có thể đi tắt, đón đầu về khoa học-công nghệ; song TKQĐ lên CNXH của nước ta chắc chắn rất lâu dài, gian khổ và phức tạp. Chỉ khi nào, xã hội mà chúng ta đang xây dựng, tạo ra được năng suất lao động cao hơn CNTB, thì con đường bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH mới giành được thắng lợi; CNXH mới có cơ sở vững chắc để tồn tại, phát triển, góp phần tích cực thúc đẩy thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
                 Về nội dung chính trị. Vấn đề quan trọng hàng đầu là xây dựng một nhà nước kiểu mới, gắn liền với xây dựng một nền dân chủ mới. Đây là kiểu nhà nước chưa từng có trong lịch sử nhân loại, là nhà nước của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Để xây dựng được nhà nước đó, thay thế cho kiểu nhà nước của các giai cấp thống trị, là quá trình phức tạp, phải tìm tòi, thử nghiệm.       
                Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã dạy chúng ta: cuộc sống sẽ chỉ ra cái gì có thể đứng vững được; do đó, chúng ta phải tìm tòi, tổ chức một nhà nước và cơ chế hoạt động như thế nào để thể hiện, đảm bảo và thực sự phát huy vai trò, hiệu lực làm chủ của nhân dân. Chẳng hạn như: xây dựng và tổ chức hoạt động của quốc hội như thế nào, để khi họp, bàn bạc, biểu quyết và đi đến quyết định phải thể hiện được sự thống nhất ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân,...; nhất là, tổ chức bầu cử quốc hội như thế nào để đảm bảo dân chủ thực sự, thống nhất lòng dân và sự lãnh đạo của Đảng; Đảng lãnh đạo xây dựng pháp luật nhưng các tổ chức đảng và đảng viên đều phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; Đảng lãnh đạo cơ quan tư pháp, xét xử, nhưng phải đảm bảo quyền độc lập của cơ quan xét xử;... Đây là những vấn đề phức tạp, chưa có tiền lệ mà thực tiễn cuộc sống đang đặt ra, đòi hỏi chúng ta phải giải quyết có  hiệu quả.
                 Tổ chức nhà nước kiểu mới, gắn mật thiết với xây dựng nền dân chủ mới. Đó là nền dân chủ của đa số người dân, trước hết là của nhân dân lao động. Nền dân chủ mà nhân dân ta đang xây dựng là nền dân chủ XHCN, ở đó quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mọi hoạt động của công dân đều phải tuân thủ pháp luật, theo quyết định của đa số. Tuy nhiên, ý kiến của thiểu số sẽ được bảo lưu, nếu thực tiễn kiểm nghiệm đúng thì sẽ được vận dụng vào thực tế; nhưng để tổ chức nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì vẫn phải theo quyết định của đa số. Tổ chức một nền dân chủ như thế phải rất tỉ mỉ, cụ thể. Từ trình độ nước kém phát triển, nhân dân ta chưa trải qua nền dân chủ tư sản mà bước thẳng lên nền dân chủ XHCN, thì không khỏi lúng túng, bỡ ngỡ, khó khăn. Vì vậy, việc xây dựng nền dân chủ XHCN của nước ta cần thời gian không ngắn, cần trải nghiệm nhiều hình thức, nhiều bước đi để chọn lọc những yếu tố hợp lý, trình độ dân chủ được mở rộng, thấm sâu, dần dần, trên cơ sở phát triển kinh tế và văn hóa của nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất được lịch sử, nhân dân và dân tộc giao phó sứ mệnh lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội, thì tổ chức nền dân chủ mới ấy càng là một quá trình tìm tòi, sáng tạo để từng bước thực hiện có hiệu quả phương thức: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lí, nhân dân làm chủ.
                Trên đây là những nội dung kinh tế, chính trị chủ yếu, đặc trưng của TKQĐ lên CNXH. Bên cạnh đó, còn có những nội dung khác nữa, trong đó có cả những nội dung không đặc trưng cho TKQĐ, mà có ở mọi thời kỳ lịch sử của đất nước, như về quốc phòng, an ninh... Tuy vậy, kinh nghiệm mấy chục năm qua cho thấy, ngay nội dung bảo vệ Tổ quốc cũng có dấu ấn của TKQĐ cả về nội dung, phương thức. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay của chúng ta còn là bảo vệ Đảng, bảo vệ con đường XHCN, chống “Diễn biến hòa bình”.v.v.
                  Những nội dung kinh tế, chính trị của TKQĐ lên CNXH không tồn tại biệt lập mà tác động qua lại. Trình độ xây dựng nhà nước, quản lí nhà nước; trình độ xây dựng và phát huy nền dân chủ XHCN ảnh hưởng trực tiếp đến những diễn biến kinh tế và những động lực phát triển kinh tế. Trình độ phát triển kinh tế lại làm cơ sở vững chắc cho nền chính trị mới. Nhận thức tự giác nội dung kinh tế, chính trị của TKQĐ lên CNXH, chúng ta cần có những giải pháp phù hợp để thúc đẩy TKQĐ đi lên CNXH. Giải pháp ở đây là theo nghĩa rộng, là vai trò của yếu tố chủ quan, là phát huy tính năng động chủ quan trong đề ra những chủ trương, chính sách và phương thức tổ chức thực tiễn có hiệu quả.
                CNXH, về thực chất là sự nghiệp có tính chất kinh tế, nên giải pháp trước hết, quan trọng hàng đầu là đưa ra những hình thức kinh tế quá độ (KTQĐ) phù hợp với những đặc trưng của TKQĐ lên CNXH. Hình thức KTQĐ là hình thức trung gian giữa CNTB và CNXH, vận động theo định hướng XHCN. Lựa chọn hình thức KTQĐ về thực chất là lựa chọn hình thức, bước đi quá độ về QHSX, mà QHSX, theo Ph. Ăng-ghen, là biểu hiện trước hết ở lợi ích kinh tế. Vì thế, lựa chọn hình thức KTQĐ là lựa chọn một  hợp lực về lợi ích kinh tế, một sự giao thoa về lợi ích kinh tế phù hợp, không còn lợi ích hoàn toàn TBCN, nhưng cũng chưa phải lợi ích XHCN đầy đủ; qua đó, tạo động lực hợp lý thúc đẩy phát triển kinh tế. Trong hình thức KTQĐ, CNTB không chống lại CNXH; mà nó tích cực “cày trên luống cày của CNXH”; còn CNXH sử dụng một số mặt hợp lý của CNTB để phát triển kinh tế, thậm chí người lao động có cơ hội học cách quản lý có hiệu quả của các chuyên gia tư sản. Những hình thức KTQĐ là những nấc thang tạo nên sự chín muồi dần của CNXH cả về phương diện LLSX và QHSX. Hình thức KTQĐ cũng là biểu hiện dân chủ có lãnh đạo trên lĩnh vực kinh tế, giúp nhân dân từng bước tiếp thu, giác ngộ XHCN một cách vững chắc.
                Ở nước ta hiện nay, thị trường định hướng XHCN là hình thức KTQĐ tổng quát, bao trùm. Nó không phải thị trường TBCN, mà cũng chưa phải là thị trường XHCN đầy đủ. Thị trường định hướng XHCN là một thực thể, một tồn tại, những yếu tố của thị trường và tác động của những quy luật thị trường đều có tính đặc thù đòi hòi khách quan, phù hợp với đất nước, xã hội đang quá độ đi lên CNXH. Các chính sách cũng như các hoạt động khác phải được nhà nước quản lý; nhà nước phải vận dụng tốt yêu cầu khách quan quá độ đó. Chẳng hạn, giá cả lên xuống theo quan hệ cung cầu; tuy nhiên, nhà nước có những biện pháp để giá cả không hoàn toàn tự phát, nhằm giảm bớt khó khăn, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Biện pháp của nhà nước không phải là xóa bỏ quy luật cung cầu (và cũng không thể xóa được quy luật khách quan đó), cũng không phải chủ yếu bằng biện pháp hành chính mà chủ yếu bằng biện pháp kinh tế thông qua thực lực của kinh tế nhà nước và các công cụ kinh tế để điều chỉnh quan hệ cung cầu, góp phần điều tiết giá cả trên thị trường. Không nên hiểu chỉ trong thị trường TKQĐ mới có quy luật cung cầu còn trong thị trường XHCN đầy đủ thì không có quy luật cung cầu. Vấn đề là ở chỗ, cường độ hoạt động và tương tác giữa quy luật cung cầu và quy luật cân đối có kế hoạch thì có sự khác nhau trong TKQĐ và khi CNXH được xây dựng xong.
                Đời sống kinh tế nước ta đang cho thấy doanh nghiệp cổ phần là hình thức KTQĐ phổ biến, đặc sắc, điển hình; trong đó có các doanh nghiệp hỗn hợp sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân. Dù  kinh tế nhà nước chi phối hay không chi phối, thì doanh nghiệp cổ phần loại này đều thể hiện không thuần túy là kinh tế nhà nước hay kinh tế tư nhân. Nó thực sự là hình thức kinh tế trung gian, nhưng dưới sự quản lý của nhà nước, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, thì xu hướng vận động của nó không theo con đường TBCN, mà tiệm tiến lên CNXH. Trong doanh nghiệp cổ phần loại này, có sự dung hợp lợi ích nhà nước và lợi ích tư nhân; đặt trong chế độ XHCN, nó trở thành động lực mạnh mẽ để phát triển kinh tế. Thực tiễn đã chỉ ra, nếu trong TKQĐ lên CNXH mà chỉ chú trọng lợi ích nhà nước, thì không có động lực trực tiếp; trái lại, nếu chỉ chú trọng lợi ích tư nhân thì không còn là CNXH nữa. Đương nhiên, vẫn có những doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, theo đó nhà nước nắm giữ những vị trí then chốt của nền kinh tế quốc dân; những doanh nghiệp 100% vốn tư nhân, theo đó chịu sự kiểm kê, kiểm soát của nhà nước XHCN. Kinh nghiệm xây dựng CNXH ở nước ta (từ 1975 đến 1986) cho thấy, sự chủ quan duy ý chí và bước đi nóng vội, bỏ qua những hình thức quá độ trung gian, đã không thành công. Thực tiễn 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng (1986-2010) cho ta bài học quý giá: hình thức quá độ trung gian là sự chọn lựa đúng đắn, đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển nhanh, bền vững.
                TKQĐ lên CNXH ở nước ta dài hay ngắn tùy thuộc một phần quan trọng vào tính năng động chủ quan của chúng ta; làm đúng, làm tốt thì thời gian ngắn, làm dở thì sẽ kéo dài. Xuất phát từ thực tiễn, vận dụng lý luận, tổng kết thực tiễn, vững vàng nguyên tắc, linh hoạt trong hình thức, bước đi, là một trong những chìa khóa đưa sự nghiệp xây dựng CNXH của Đảng và nhân dân ta đến thành công.
                                                                                                              VŨ HỮU NGOẠN
                                    Nguyên Phó Viện trưởng Viện Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh




MỘT CHIÊU TRÒ CŨ RÍCH CẢN TRỞ QUAN HỆ HỢP TÁC VIỆT NAM - HOA KỲ

                Tiến bộ xã hội đã và đang thúc đẩy các nước sống trong “ngôi nhà chung thế giới” giải quyết những vấn đề khác biệt theo xu hướng: “hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển”. Ấy vậy mà, những kẻ thâm thù với cách mạng Việt Nam lại dùng những “chiêu trò” cũ rích để cản trở sự phát triển quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.
                Chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ B. Obama (từ ngày 23 đến 25-5-2016) là sự tiếp nối các sự kiện xác lập quan hệ Đối tác toàn diện hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ (trong chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương tấn Sang, năm 2013) và nâng cao hơn trong chuyến thăm Hoa Kỳ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (tháng 7-2015). Tuy vậy, chuyến thăm này của Tổng thống B. Obama có ý nghĩa đánh dấu sự khép lại những trang sử đau buồn giữa hai dân tộc, mà trách nhiệm thuộc về Hoa Kỳ. Đồng thời, còn được xem là sự  hóa giải nhiều vấn đề chính trị phức tạp giữa hai quốc gia từ thời kỳ chiến tranh lạnh.
                Thế nhưng, trên một số trang mạng “ngoài luồng” trong nước và hải ngoại, những người tự gọi là “ bất đồng chính kiến”, là “bạn của người dân Việt Nam” đã cố tình xuyên tạc, bóp méo, nhằm mục đích phá hoại quan hệ giữa hai nước đang trên đà phát triển. Nhân chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ, họ đã tung ra “một mớ” thông tin sai trái, độc hại hòng chuyển hóa chế độ xã hội nước ta sang mô hình “dân chủ, nhân quyền” ngoại nhập. Họ dùng mọi thủ đoạn để xuyên tạc, bôi nhọ vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, chế độ xã hội chủ nghĩa, kích động người dân (trong vụ cá chết ở miền Trung, vấn đề biển Đông), v.v. Một số cá nhân đã “gợi ý” cho Tổng thống B. Obama lấy “nhân quyền” làm điều kiện xóa bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam. Thậm chí họ còn “vuốt mặt chẳng nể mũi”, chỉ trích, “kết tội” cả Tổng thống B. Obama! Chẳng hạn, có người trả lời BBC rằng: “Một tập quán hết sức đáng lên án đối với nhà cầm quyền (Việt Nam) là họ dùng các tù nhân chính trị như những món hàng để trao đổi với Hoa Kỳ,… tôi đề nghị Hoa Kỳ đòi hỏi Việt Nam phải thả hết những tù nhân lương tâm một cách vô điều kiện. Chứ không phải dùng họ làm một món hàng để trao đổi như vậy”. Có kẻ thì nhắc lại quan điểm của một số nghị sĩ Hoa Kỳ rằng: “Nếu Việt Nam không đáp ứng các điều kiện về nhân quyền, không cải thiện về nhân quyền thì không thể nói tới chuyện Hoa Kỳ gỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam”. Lại có kẻ từng được Nhà nước ta khoan hồng (cho phép định cư ở Hoa Kỳ), nhưng “ngựa quen đường cũ” lập luận rằng, việc “bỏ cấm vận hoàn toàn vũ khí sát thương của Tổng thống B. Obama đã “làm hỏng tiến trình dân chủ hóa ở Việt Nam”(!). Cũng với lập luận như trên, bà Loretta Sanchez - một dân biểu Hoa Kỳ, cho rằng: “Hoa Kỳ đã đặt tiền (hợp tác kinh tế với Việt Nam) trên nhân quyền”!, v.v. Dù vậy, họ cũng không cản trở được sự phát triển quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.
                Xét từ nhân tố thời đại và chế độ xã hội, quan hệ hợp tác Việt Nam - Hoa Kỳ nằm trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Quá trình này diễn ra từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX, do tác động bởi nhiều nguyên nhân; trong đó, chủ yếu nhất là sự phát triển kinh tế, khoa học - công nghệ và đặc biệt là in-tơ-nét. Sự thoái trào của một bộ phận trong hệ thống xã hội chủ nghĩa (từ năm 1989 - 1991) được xem như dấu mốc kết thúc thời kỳ chiến tranh lạnh - thế giới chuyển sang thời kỳ mới, với đặc điểm nổi bật là: “… các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Từ năm 1986 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo mô hình mới. Về chính trị, là chế độ xã hội do “nhân dân làm chủ” với việc “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, các quyền con người, quyền lợi, nghĩa vụ công dân được tôn trọng và bảo đảm bằng pháp luật. Về kinh tế, “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Về quan hệ quốc tế, “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển”.
                Trong quan hệ với Hoa Kỳ, Việt Nam và Hoa Kỳ đã từng có khoảng thời gian là cựu thù, mà trách nhiệm thuộc về Hoa Kỳ. Cho đến nay, mặc dù hai nước vẫn còn những khác biệt về hệ tư tưởng, chế độ xã hội, thể chế quốc gia, nhưng đã và đang cùng nhau nỗ lực giải quyết. Hiện nay, hai nước đang có những vấn đề quan trọng (cả trong ngắn hạn và dài hạn) cần được ủng hộ lẫn nhau, như: quyền tự do hàng hải, hàng không ở Biển Đông của Hoa Kỳ; vấn đề chủ quyền biển đảo ở Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam và việc phê chuẩn Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) của cả hai nước, v.v. Việt Nam và Hoa kỳ đã và đang hợp tác giải quyết các vấn đề, như: việc tẩy rửa chất độc đi-ô-xin, trợ giúp nạn nhân chiến tranh, rà phá bom mìn trên lãnh thổ Việt Nam, phối hợp tìm kiếm hài cốt quân nhân Mỹ mất tích trong chiến tranh, v.v. Để duy trì, phát triển quan hệ Đối tác toàn diện đi vào chiều sâu, mang lại hiệu quả, thiết thực hơn, cần có những hoạt động thường xuyên của lãnh đạo hai nước và chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống B. Obama vừa qua phần nào đáp ứng những yêu cầu đó.
                Kết quả các cuộc hội đàm, tiếp kiến, trao đổi trong chuyến thăm của Tổng thống B. Obama đã đưa ra “Tuyên bố chung Việt Nam - Hoa Kỳ”; trong đó, đề cập nhiều nội dung lớn trong quan hệ hợp tác giữa hai nước. Về quan hệ chính trị - ngoại giao, “nhằm củng cố lòng tin giữa hai bên trong việc xây dựng tình hữu nghị và hợp tác bền vững, lành mạnh và lâu dài giữa hai dân tộc”. Về kinh tế, hai nước “quyết tâm tập trung thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực thương mại, đầu tư, khoa học - công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực và ứng phó với biến đổi khí hậu, v.v”. Đặc biệt, Hoa Kỳ cam kết hỗ trợ Việt Nam triển khai có hiệu quả các nội dung, đáp ứng những tiêu chuẩn của Hiệp định TPP. Về quốc phòng, hai bên tái khẳng định cam kết tăng cường hợp tác quốc phòng giữa hai nước, “Việt Nam hoan nghênh quyết định của Chính phủ Hoa Kỳ dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí sát thương đối với Việt Nam”. Phát biểu tại Cuộc hội đàm với Chủ tịch nước Trần Đại Quang, Tổng thống B. Obama nói: “Việc xóa bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí là sự “thể hiện cam kết của Hoa Kỳ muốn khẳng định sự bình thường hóa hoàn toàn với Việt Nam, bao gồm cả mối liên hệ chặt chẽ về quốc phòng giữa Hoa Kỳ với Việt Nam và đối với khu vực này về lâu dài”; rằng: “Việc dỡ bỏ lệnh cấm vận này là thể hiện mong muốn của Hoa Kỳ muốn giúp Việt Nam tiếp cận được với các loại thiết bị và vũ khí mà Việt Nam đang cần để bảo vệ đất nước”. Trên lĩnh vực nhân quyền, hai bên cam kết “tiếp tục thúc đẩy và bảo vệ quyền con người phù hợp với hiến pháp và cam kết quốc tế của mỗi nước,… Hoa Kỳ hoan nghênh những nỗ lực của Việt Nam trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp nhằm bảo đảm tốt hơn quyền và tự do cơ bản cho mọi người phù hợp với Hiến pháp năm 2013”. Những vấn đề khu vực và toàn cầu (trong đó, có biến đổi khí hậu), hai bên tái khẳng định quan điểm: “Giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và trên biển bằng biện pháp hòa bình, tôn trọng đầy đủ các tiến trình ngoại giao và pháp lý, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS). Các bên tranh chấp không có những hành động làm phức tạp tình hình, mở rộng các tranh chấp, thừa nhận tầm quan trọng của việc thực hiện nghiêm túc Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), thúc đẩy thương lượng thực chất và sớm ký kết Bộ Quy tắc ứng xử (COC)”. Hai bên nhất trí tiến hành một số hoạt động thực tế, “nhằm giảm thiểu, thích ứng với biến đổi khí hậu, trong khuôn khổ Đối tác Biến đổi khí hậu Việt Nam - Hoa Kỳ, kể cả khu vực đồng bằng sông Cửu Long”.  
                Về nguyên tắc trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, cả hai nước luôn tuân thủ những nguyên tắc của mình, vì lợi ích quốc gia dân tộc của mỗi bên. Không chỉ riêng với Hoa Kỳ, mà trong quan hệ với tất cả các nước trên thế giới, Việt Nam luôn đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên hết, theo quan điểm: “Những ai tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”; trong quan hệ hợp tác, các bên tôn trọng chế độ chính trị, thể chế quốc gia của nhau. “Tuyên bố chung Việt Nam - Hoa Kỳ” ngày 24-5-2016 tái khẳng định: “Hai bên cam kết tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc, tôn trọng luật pháp quốc tế, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước”. Giải quyết bất đồng giữa các bên bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt, chỉ đạo mọi hoạt động trong quan hệ với tất cả các đối tác của Việt Nam, không phân biệt chế độ xã hội và ý thức hệ, chứ không chỉ riêng trong quan hệ với Hoa Kỳ.
                Có thể nói, việc thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với Việt Nam của Hoa Kỳ phản ánh xu thế chung của thời đại. Không có chuyện hai bên lợi dụng lẫn nhau như một “quân bài chiến lược”, một “đối trọng” để đối phó với bất kỳ nước nào. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, việc Hoa Kỳ xóa bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí sát thương đối với Việt Nam là điều bình thường, vì chính lợi ích của Hoa Kỳ và quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước.
                Sự đa dạng về mô hình xã hội, chế độ chính trị trong “ngôi nhà chung” thế giới đã bao hàm sự khác biệt hoặc bất đồng nào đó mà các bên đều có thể hóa giải. Để rút ngắn khoảng cách, tiến tới giải quyết nó, chỉ có thể bằng “đối thoại” cởi mở, thẳng thắn trên tinh thần xây dựng giữa các quốc gia, các bên chứ không thể có con đường nào khác. Lối tư duy lấy dân chủ, nhân quyền làm điều kiện áp đặt cho quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ mà các “nhà dân chủ, nhân quyền quốc nội” và hải ngoại “gợi ý” cho Tổng thống B. Obama đã quá “cổ hủ”, không còn phù hợp với điều kiện và xu thế hiện nay.
THÀNH NAM


HỌ LẠI "BỊT MẮT, NÓI BỪA"

Ngày 20-4-2016, Tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) công bố cái gọi là “Bản Phúc trình thường niên 2016” xếp hạng tự do báo chí của 180 nước; trong đó, vẫn duy trì cái nhìn sai lệch về tình hình báo chí ở Việt Nam.
Thông báo Bản Phúc trình, ông Benjamin Ismail - người chuyên trách khu vực châu Á của RSF - nói bừa rằng: “Lĩnh vực tự do thông tin và tự do báo chí của Việt Nam sa sút đáng kể; những hành động bắt giữ, sách nhiễu bloggers và các nhà báo công dân tiếp tục xảy ra, điển hình như vụ việc Nguyễn Hữu Vinh tức blogger Anh Ba Sàm và trường hợp luật sư Nguyễn Văn Đài”!. Còn trong Bản Phúc trình 2016, RSF cho rằng: ở Việt Nam, “các blogger và nhà báo công dân, những nguồn thông tin độc lập tại một quốc gia mà báo chí hoàn toàn nằm dưới quyền kiểm soát của Đảng Cộng sản, là đối tượng của một chủ trương đàn áp rất khắc nghiệt. Bạo lực công an trị nhắm vào các nhà báo diễn ra thường xuyên, nhân danh Nghị định 72, điều luật nhằm giới hạn việc sử dụng in-tơ-nét”.
Cần khẳng định ngay rằng, những thông tin mà Bản phúc trình 2016 của RSF và của ông Benjamin Ismail đưa ra là không khách quan, không đúng thực tế; chỉ là hành động “Bịt mắt, nói bừa” về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam.
        Trước hết, sự thật về tự do báo chí ở Việt Nam trái ngược hẳn với những gì mà RSF đưa ra. Sự phát triển nhanh của các phương tiện thông tin đại chúng và  in-tơ-nét cho thấy: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam đã có bước cải thiện rất đáng kể trong những năm qua. Số lượng các cơ quan báo chí đã tăng thêm 71 cơ quan trong giai đoạn 2011 - 2015. Hiện nay, cả nước có 857 cơ quan báo chí, với trên 18.000 nhà báo được cấp thẻ (tăng 1.500 người so với năm 2011). Số cơ quan báo chí điện tử cũng tăng thêm 44 cơ quan. Đến nay, cả nước có 105 báo, tạp chí điện tử, 248 trang thông tin điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí được cấp phép. Người dân Việt Nam được tiếp cận 258 kênh phát thanh, truyền hình; trong đó, có nhiều kênh truyền hình nước ngoài, như: TV5, HBO, CNN International, BBC World News, BBC Lifstyle, NHK World, Chanel V, Arirang, Starmovies, Cartool Netwoork, Cinemax, FoxSports, Discoveri, v.v. Báo chí ở Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong phản biện các chủ trương, chính sách của các cấp chính quyền, nhất là trong cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực. Điều 2 của Luật Báo chí (sửa đổi năm 1999, còn hiệu lực đến 01-01-2017) đã ghi rõ: “Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân. Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, phát sóng”. Luật Báo chí (sửa đổi 2016) được Quốc hội khóa XIII thảo luận trong năm 2015 và thông qua tháng 4-2016 cũng theo định hướng đó; đồng thời, dành hẳn Chương II quy định cụ thể về quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân; mở rộng đối tượng được thành lập tạp chí khoa học so với trước, bao gồm cả các cơ sở giáo dục, tổ chức khoa học và công nghệ thuộc loại hình tư thục, có đầu tư nước ngoài. Tỷ lệ người dân sử dụng in-tơ-nét cũng tăng lên đáng kể. Nếu tháng 12-2013 chỉ có 34% dân số, thì đến tháng 12 năm 2015 đã có 52% dân số sử dụng, cao hơn mức trung bình của khu vực châu Á (38,8%) và của thế giới (45%), đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á, thứ 6 tại châu Á. Việc báo chí được tham gia giám sát công tác kiểm phiếu kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021; cũng như việc phát sóng truyền hình trực tiếp buổi thuyết trình của Tổng thống B. Ô-ba-ma tại Trung tâm Hội nghị quốc gia trưa ngày 24 - 5 trong chuyến thăm Việt Nam vừa qua là những bằng chứng sinh động nói lên quyền tự do báo chí ở Việt Nam đang được đảm bảo tốt.
Sự phát triển nói trên của báo chí và in-tơ-nét ở Việt Nam cho thấy: nhận định của ông Benjamin Ismail về “Lĩnh vực tự do thông tin và tự do báo chí của Việt Nam sa sút đáng kể” và sự quy kết của RSF về Nghị định 72/NĐ-CP “nhằm giới hạn việc sử dụng in-tơ-nét ” là hoàn toàn không có cơ sở. Cần phải nhắc lại rằng, Nghị định 72 cũng để bảo đảm cho người dân được tự do, an toàn hơn khi sử dụng in-tơ-nét . Đó là việc làm phù hợp với xu thế chung mà chính phủ nước nào cũng thực hiện. Chẳng hạn, năm 2014, Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ ban hành Luật kiểm soát in-tơ-nét với một số quy định, như: “Các nhà cung cấp dịch vụ buộc phải lưu trữ tối thiểu 2 năm tất cả dữ liệu của người dùng và có trách nhiệm cung cấp cho an ninh nếu cần thiết”; “Cơ quan an ninh có quyền chặn bất cứ trang web nào mà không cần phải nhờ tới phán quyết của tòa án”. Trước làn sóng phản đối của cư dân mạng, Thủ tướng nước này, ông Erdogan đã nói rằng: “Chúng ta chỉ đặt ra điều luật mà bất cứ đất nước công nghiệp nào cũng đều làm. Bạn hãy sang các nước khác ở khắp châu Âu mà xem, bạn sẽ tìm thấy những bộ luật đúng như vậy. Hay bạn sang Mỹ mà xem, bên đó cũng vậy thôi, luật của nước Mỹ không có gì khác so với của Thổ Nhĩ Kỳ"1. Đúng vậy, ở Pháp, Luật tự do báo chí năm 1881 (được coi là bộ luật gốc điều chỉnh các hành vi bày tỏ ngôn luận của công dân) cũng đưa ra các giới hạn, chế tài trừng phạt nghiêm khắc người nào lạm dụng quyền tự do ngôn luận làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Việc bày tỏ quan điểm trên in-tơ-nét cũng chịu sự điều chỉnh của Luật này. Án lệ của nước Pháp đã đưa ra rất nhiều vụ việc lạm dụng in-tơ-nét để vu khống, nói xấu, bôi nhọ người khác. Chẳng hạn vào năm 2013, Tòa hình sự Pa-ri đã ra phán quyết xử phạt 500 ơ-rô và phạt án treo đối với một nhân viên trực tổng đài vùng Caen vì đã viết trên facebook của mình: “một ngày chết tiệt, công việc chết tiệt, văn phòng chết tiệt, sếp chết tiệt”. Tòa nhận định: “việc phát ngôn một cách xúc phạm đã vượt quá giới hạn của một sự chỉ trích thông thường”. Công tố viên Tòa phúc thẩm Versailles cũng đồng tình với phán quyết đó, khi khẳng định “Facebook là một không gian công cộng và việc tự do ngôn luận phải bị giới hạn”2.
          Thứ hai, cũng như mọi quốc gia trên thế giới, quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận ở Việt Nam là một quyền có giới hạn. Những quy định hạn chế quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trong luật pháp Việt Nam đối với một số trường hợp là hoàn toàn phù hợp với Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và Công ước Nhân quyền châu Âu (có hiệu lực từ 03-9-1953). Khoản 3 Điều 19 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Khoản 2 Điều 10 của Công ước Nhân quyền châu Âu đều quy định những giới hạn nhất định đối với quyền tự do ngôn luận, nhằm bảo đảm các quyền hợp pháp và chính đáng, uy tín, danh dự của người khác; cũng như nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn công cộng, sức khỏe cộng đồng và đạo đức của xã hội. Những trường hợp mà RSF gọi là “các bloggers có tiếng nói đối lập bị đàn áp” như: Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Văn Đài…, thì thực chất, họ là những người đã vi phạm khoản 3 Điều 19 và khoản 2 Điều 10 mà các công ước nói trên quy định.
Đối với Nguyễn Văn Đài, ngay sau khi chấp hành xong bản án 4 năm tù về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Đài tiếp tục nhận sự chỉ đạo của tổ chức khủng bố Việt Tân để thành lập các tổ chức đối lập và trực tiếp điều hành hoặc đóng vai trò là thành viên chủ chốt, như: “Trung tâm nhân quyền Việt Nam”, “Công đoàn độc lập”, “Liên minh dân chủ nhân quyền Việt Nam”, “Hội Cựu tù nhân lương tâm”, v.v. Các hội, nhóm này thường xuyên tổ chức tán phát tài liệu xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở nước ta trên các trang web, blog, facebook với các tin, bài viết tuyên truyền chống Đảng, Nhà nước. Âm mưu của Đài và các “cộng sự” là tập hợp lực lượng, hình thành, công khai hóa các tổ chức chính trị đối lập với Đảng Cộng sản Việt Nam; kích động người dân xuống đường biểu tình, phá rối an ninh, thực hiện “cách mạng đường phố”. Nguyễn Văn Đài còn thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, huấn luyện cách thức “đấu tranh bất bạo động” tại nhà thờ Thái Hà, Cát Bà và nhiều địa phương khác, cũng như trên in-tơ-nét. Đầu tháng 12-2015, được sự chỉ đạo từ tổ chức Việt Tân, Đài đã cùng một số đồng bọn vào Nam Đàn, Nghệ An để tổ chức rao giảng về nhân quyền, nhưng thực chất là tuyên truyền các quan điểm chống Đảng, Nhà nước, lôi kéo người tham gia vào các hoạt động chống đối. Nguyễn Văn Đài còn thường xuyên trả lời phỏng vấn, cung cấp tài liệu cho các đài báo nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam, như: BBC, RFA,… để xuyên tạc vấn đề dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam; qua đó, vu khống, bịa đặt, kích động lớp trẻ nổi loạn, hướng dẫn mọi người tham gia đảng phái đối lập để “đứng lên giành chính quyền”!. Hành vi của Nguyễn Văn Đài đã xâm phạm đến sự thống nhất về tư tưởng chính trị trong xã hội, đe dọa sự vững mạnh của chính quyền nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Đài bị bắt giữ và khởi tố về tội “Tuyên tuyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa  Việt Nam” theo Điều 88 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn phù hợp.
Còn đối với Nguyễn Hữu Vinh, theo Kết luận của cơ quan điều tra: tháng 9-2013 và tháng 01-2014, Nguyễn Hữu Vinh đã lợi dụng quyền tự do ngôn luận để cùng Nguyễn Thị Minh Thúy đăng 24 bài viết trên hai blog: diendanxahoidansu.wordpress.com và chepsuviet.wordpress.com có nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; bôi nhọ các cá nhân, làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan, tổ chức; gây hoang mang lo lắng trong xã hội, ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, điều hành của Chính phủ, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hai blog này đã lôi kéo nhiều người comment với nội dung tiêu cực. Hành vi nêu trên của Nguyễn Hữu Vinh, Nguyễn Thị Minh Thúy đã phạm vào tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân như Khoản 2 Điều 258 Bộ luật Hình sự quy định, nên bị bắt giữ và xử lý là hoàn toàn chính xác. Vì vậy, cả Nguyễn Văn Đài và Nguyễn Hữu Vinh bị bắt giữ, xử lý là do họ vi phạm pháp luật, chứ không phải là họ làm báo như RSF cố tình lừa dối dư luận.
          Thứ ba, Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Văn Đài không phải là nhà báo, nên không phải là đối tượng mà Bản Phúc trình phải quan tâm. Điều đó cho thấy, RSF đang can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, không thực hiện theo đúng tôn chỉ, mục đích của chính Tổ chức này xác định là nhằm bảo vệ các nhà báo trên thế giới. Phải chăng, bất kể người viết blog nào có tiếng nói chống đối chính phủ sở tại, gây nguy hại cho an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội nước sở tại cũng được RSF phong tặng danh phận là “nhà báo công dân” ?. Chẳng lẽ, RSF không biết hay cố tình không biết Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Văn Đài không làm việc trong một cơ quan báo chí Việt Nam nào cả; cũng không được Bộ Thông tin - Truyền thông Việt Nam cấp thẻ nhà báo, như Luật Báo chí của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định, nên cố tình ghép cho họ cái danh phận “nhà báo công dân” để dễ bề ủng hộ?.
Thứ tư, RSF và ông Benjamin Ismail đã bộc lộ rõ ý đồ xấu đối với Việt Nam khi lồng vào Bản Phúc trình cả những vấn đề không liên quan gì đến báo chí và nhà báo. Thông báo về nội dung Bản Phúc trình tự do báo chí 2016, ông Benjamin Ismail nói: “Chúng tôi sẽ tiếp tục lưu ý chính giới Hoa Kỳ rằng nếu họ muốn Việt Nam trở thành đối tác TPP thì Mỹ nên thúc đẩy Hà Nội cải thiện nhân quyền trong đó có quyền tự do thông tin và tự do báo chí. Phải có tự do, đặc biệt tự do báo chí, Việt Nam mới có thể gia nhập TPP như cả Washington và Hà Nội mong muốn”. Ô hay, ông Benjamin Ismail không hiểu rằng, nhu cầu gia nhập TPP là của tất cả các nước tham gia TPP; trong đó có cả Hoa Kỳ chứ đâu chỉ là nhu cầu của Việt Nam. Tuyên bố chung Việt Nam - Hoa Kỳ nhân chuyến thăm của Tổng thống B. Ô-ba-ma ngày 23-5-2016 đã nêu rõ: “Cả hai đều thấy rằng Hiệp định Thương mại xuyên Thái Bình Dương có vai trò quan trọng, góp phần tăng cao đầu tư và thương mại giữa hai nước, gia tăng phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm”. Trong các buổi làm việc với lãnh đạo Việt Nam và trong buổi họp báo chung với Chủ tịch nước Trần Đại Quang, vị Tổng thống này nhiều lần khẳng định: “chúng ta cùng nhau thúc đẩy TPP”. Do vậy, vấn đề tự do báo chí đâu có vị trí trong nội dung TPP mà ông Benjamin Ismail đe dọa. 
Những cái nhìn thiếu thiện chí, nhận xét sai lệch về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam của RSF không có gì lạ; bởi về thực chất, RSF chỉ là “cái loa”, hay “cánh tay” nối dài của những thế lực thù địch đối với Nhà nước Việt Nam hiện nay. Do RSF là tổ chức nhận tài trợ nhiều từ nhà tỷ phú Mỹ George Soros và từ Quỹ quốc gia Hỗ trợ dân chủ - tổ chức mà 90% ngân sách có nguồn gốc từ ngân sách quốc gia Hoa Kỳ và Bộ Ngoại giao Mỹ - nên RSF chẳng bao giờ khách quan. Nhiều người đã cáo buộc Tổ chức này không khách quan “khi tường trình về việc phân biệt đối xử nhà báo một cách có chọn lọc trước từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ; bỏ qua tất cả các tường trình về những hoạt động chống lại nhà báo trong những nước đồng minh của Hoa Kỳ hay chính trong Hoa Kỳ”. Thierry Meyssan - Chủ tịch Nhật báo Pa-ri và nhà báo Red Voltaire đã tố cáo RSF câu kết với “Trung tâm báo chí vì Cu-ba tự do - CFF” (tổ chức phản động chống Cu-ba) để thực hiện hợp đồng trị giá 125.000 USD với điều kiện của CFF đưa ra là RSF phải đưa nhiều thông tin sai sự thật để người nước ngoài biết việc “đàn áp nhà báo ở Cu-ba” và ủng hộ “thân nhân những nhà báo bị bắt giữ”!
Bản chất của RSF là vậy, thì làm sao họ khách quan với Việt Nam được! Bất cứ nhà báo có lương tâm nào cũng có thể cảm nhận được quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí ở Việt Nam đang ngày một tốt hơn, chỉ có RSF là không thấy, vì họ đang tự bịt mắt để dễ nói bừa.
NGUYỄN NGỌC HỒI