Thứ Tư, 28 tháng 9, 2016

CÁC BỊ CÁO ĐÃ VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ

          Phiên tòa phúc thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Hữu Vinh và bị cáo Nguyễn Thị Minh Thúy về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”, theo Điều 258, Bộ luật Hình sự, vừa khép lại. Sau khi xem xét toàn diện vụ án, Hội đồng phúc thẩm quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm với mức án 5 năm tù giam đối với Nguyễn Hữu Vinh và 3 năm tù giam đối với Nguyễn Thị Minh Thúy.

            Sẽ chẳng có gì phải bàn nếu không có chuyện mấy ngày qua, trên một số trang mạng ở nước ngoài đã đăng ý kiến của một vài tổ chức, cá nhân cho rằng: Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy vô tội; bản án mà tòa đưa ra là trái luật... Giọng điệu trên chứng tỏ những tổ chức, cá nhân đưa ra ý kiến chẳng hiểu gì về pháp luật Việt Nam và Công ước quốc tế.
            Điều 258, Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và có hiệu lực từ ngày 1-1-2010 quy định về:  Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, đã nêu rõ: “1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.  2. Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.
            Theo hồ sơ vụ án, từ đầu năm 2014, Vinh đã lập ra blog “Chép sử việt” và blog “Dân quyền”. Để duy trì hoạt động của hai blog này, Vinh đã cung cấp mật khẩu truy cập và chia sẻ cho bị cáo Thúy một số quyền quản trị... Theo xác định của Bộ Thông tin và Truyền thông, từ năm 2014 đến khi bị bắt, trên hai blog này Vinh đã đăng hơn 2.000 bài viết, trong đó có 24 bài có nội dung sai sự thật, không có căn cứ, tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bôi nhọ các cá nhân, làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan, tổ chức; đưa ra cái nhìn bi quan một chiều, gây hoang mang, lo lắng, làm ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước... Hành vi của Vinh và Thúy rõ ràng đã vi phạm Điều 258, Bộ luật Hình sự hiện hành của Việt Nam.
            Không chỉ vậy, hành vi của Vinh và Thúy cũng không phù hợp với Công ước quốc tế. Điều 19 của Công ước quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 16-12-1966 và có hiệu lực từ ngày 23-3-1976 quy định: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận” và: “Trong việc hành xử nhân quyền và thụ hưởng tự do, mọi người chỉ phải chịu những hạn chế do luật định, và những hạn chế này chỉ nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng nhân quyền, và quyền tự do của những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng về luân lý, trật tự công cộng, và nền an sinh chung trong một xã hội dân chủ.” (Điều 29 Công ước quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị).
            Trên thực tế, không một quốc gia nào trên thế giới này có quyền tự do ngôn luận tuyệt đối, quyền này thường được hạn chế bởi các quy định của pháp luật phù hợp với thực tế của từng quốc gia. Ở Việt Nam, mọi công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, nhưng quyền này phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật. Công dân không được lợi dụng quyền này để thông tin sai sự thật, xuyên tạc, bịa đặt, nói xấu làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của tập thể, cá nhân, xâm phạm đến lợi ích của người khác và lợi ích quốc gia... Mọi hành vi trái với các quy định đó đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật.
            Rõ ràng, những hành vi của Vinh và Thúy đã vi phạm pháp luật Việt Nam và không phù hợp với Công ước quốc tế. Hành vi ấy không chỉ gây hoang mang trong dư luận; ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín của cá nhân, tổ chức, làm giảm sút lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, gây nhiễu loạn xã hội mà còn gây ảnh hưởng đến lợi ích của quốc gia, dân tộc... Do đó, việc các cơ quan bảo vệ pháp luật của Việt Nam đưa Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy ra xét xử và tuyên phạt mức án như đã nêu là hoàn toàn đúng luật pháp.
                                                                               KIM NGỌC


KHÔNG THỂ XÓA MỜ HÌNH ẢNH CAO ĐẸP BỘ ĐỘI CỤ HỒ

          Những năm gần đây, một vài thông tin, hình ảnh về quân nhân vi phạm kỷ luật, pháp luật đã được tán phát với số lượng nhiều hơn kể từ khi có internet và mạng xã hội. Song có một điều bất thường là trong số đó, có không ít vụ việc thông tin bị tô vẽ, nhào nặn, bóp méo… nhằm bôi nhọ, xuyên tạc hình ảnh và phẩm chất truyền thống cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ. Cần nhìn nhận và xử lý như thế nào đối với loại thông tin này?

            Không thể đánh đồng cá biệt và bản chất
            Gần đây, có một số vụ việc được chia sẻ, tán phát nhiều trên mạng xã hội như: Một vài chiến sĩ cũ đánh chiến sĩ mới; cán bộ, sĩ quan uống rượu say không làm chủ được hành vi; sĩ quan làm công tác quản lý doanh nghiệp, quản lý kinh tế có sai phạm…
            Trước hết, cần thẳng thắn nhìn nhận, một số vụ việc được tán phát là có thật. Nhưng không ít vụ việc đã bị tô vẽ, “thêm mắm thêm muối”, “làm mới thông tin đã cũ”, cố tình bôi đen sự việc.
            Vụ việc một số chiến sĩ cũ đánh chiến sĩ mới đã xảy ra nhiều năm trước, chiến sĩ vi phạm đã bị xử lý kỷ luật nghiêm khắc và đã xuất ngũ nhưng mấy năm gần đây, cứ đến mùa tuyển quân, ra quân huấn luyện chiến sĩ mới, những người có ý đồ xấu lại tán phát clip cũ này lên mạng xã hội. Họ cố tình “làm mới” sự kiện kèm theo những bình luận, thông tin đi kèm dễ khiến dư luận hoang mang, lo ngại về môi trường kỷ luật quân đội.
            Tại vụ việc liên quan đến một lái xe trên địa bàn thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương vừa qua thì người tung clip đã cố tình cắt bỏ đoạn đầu về những hành vi vi phạm pháp luật và cố tình khiêu khích của người lái xe, chỉ đưa đoạn sau kèm những thông tin, bình luận về sai phạm của một cán bộ quân đội để người xem hiểu sai lệch sự việc. Có vụ việc tai nạn giao thông liên quan tới xe của đơn vị quân đội, ngay cả khi lỗi thuộc về người va chạm với xe quân sự và đơn vị quân đội có trách nhiệm giải quyết nghiêm túc, người ta vẫn tung ra những thông tin sai sự thật để gây sức ép cho đơn vị bộ đội: “Xe biển đỏ bỏ chạy”, “vi phạm nhưng thiếu trách nhiệm”…
            Sự xuyên tạc, bịa đặt nguy hiểm
            Thời gian gần đây, tòa soạn Báo Quân đội nhân dân nhận được thắc mắc của một số bạn đọc xung quanh cái gọi là “tâm thư” của "thạc sĩ Phạm Hồng Thúy” quê ở huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên gửi cán bộ, chiến sĩ quân đội và công an, kêu gọi mọi người có trách nhiệm trước “vận mệnh đất nước”. Trong bức tâm thư được tán phát trên mạng xã hội, người viết xưng là "con một trung tướng quân đội, mẹ là chủ nhiệm đoàn văn công Tổng cục Chính trị, bản thân làm việc cho một tập đoàn Nhà nước" nên am hiểu mọi chuyện rồi từ đó tô vẽ ra những “mối nguy hiểm” đối với vận mệnh dân tộc, quy kết bậy bạ Đảng, Nhà nước ta bán nước, bán biển đảo, quân đội ta “hèn nhát”. Bức thư còn đưa ra những thông tin xuyên tạc về vụ máy bay rơi và các nội dung đối ngoại quân sự...
            Những người có kinh nghiệm chỉ cần đọc lướt qua vài dòng sẽ biết ngay đó là một bức thư giả mạo, có nội dung phản động và không phí thời gian đọc tiếp. Song không ít người thiếu hiểu biết vẫn tin theo và chia sẻ trên mạng xã hội. Trao đổi với phóng viên Báo Quân đội nhân dân, các cơ quan chức năng của quân đội đều khẳng định đã xác minh, trên thực tế không có thạc sĩ Phạm Hồng Thúy nào ở Văn Giang, Hưng Yên. Tỉnh này cũng không có gia đình nào bố là trung tướng, mẹ là chủ nhiệm đoàn văn công quân đội như thông tin bịa đặt.
Báo Quân đội nhân dân cũng từng bị kẻ xấu xuyên tạc về một số nội dung tuyên truyền. Ngay cả chuyên mục “Làm thất bại chiến lược diễn biến hòa bình” được bạn đọc cả nước hoan nghênh, thể hiện đúng chức năng chiến đấu trên mặt trận chính trị tư tưởng nhưng kẻ xấu vẫn xuyên tạc, chống “Diễn biến hòa bình” là chống… “nhân dân”, chống những “người yêu nước” cất tiếng nói vì “công lý”. Chúng đã cố tình tiếm danh, đánh đồng giữa nhân dân với số ít những kẻ cơ hội chính trị, chống phá đất nước.
            Thời gian gần đây, được sự hậu thuẫn của các thế lực từ nước ngoài, một số đối tượng còn phát động cái gọi là cuộc thi viết “Cộng sản và tôi” để nói xấu Đảng, Nhà nước. Tại đây, chúng còn tung ra nhiều bài viết nói xấu Quân đội ta, cho rằng “không có quân đội anh hùng”, không còn Bộ đội Cụ Hồ.
            Ngay cả một số cơ quan truyền thông, một số nhà báo do thiếu thông tin và chủ quan, đơn giản đã vô hình trung có những thông tin sai trái, ảnh hưởng xấu tới uy tín, danh dự của Quân đội nhân dân Việt Nam. Vụ việc một nhà báo bị thu thẻ nhà báo do tùy tiện, thiếu suy nghĩ đưa thông tin xúc phạm danh dự, uy tín Quân đội nhân dân Việt Nam gần đây đã để lại nhiều bài học đáng suy nghĩ về trách nhiệm xã hội của nhà báo khi tiếp nhận và xử lý thông tin.
            Theo thống kê của Cục Công nghệ Thông tin (Bộ Quốc phòng), hiện có tới hàng trăm trang web, facebook giả mạo, đưa thông tin xuyên tạc liên quan tới lãnh đạo quân đội và các tổ chức liên quan tới quân đội. Sự xuyên tạc, hạ thấp uy tín, hình ảnh quân đội đối với các thế lực phản động chính là nhằm làm giảm niềm tin, chia rẽ quân đội với nhân dân, nhân dân với quân đội, phi chính trị hóa quân đội.
            Không thể xóa nhòa phẩm chất cao đẹp
            Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn luyện không bao che khuyết điểm, nương nhẹ cho những hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật. Những sai phạm ấy, dù là cá biệt song khi bị tán phát trên internet đã ảnh hưởng xấu tới uy tín, danh dự của Quân đội nhân dân Việt Nam.Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân ta từng căn dặn: “Phải nâng cao kỷ luật, giữ vững kỷ luật. Những cán bộ có ưu điểm thì phải khen thưởng; người làm trái kỷ luật thì phải phạt. Nếu không thưởng thì không có khuyến khích; nếu không có phạt thì không giữ vững kỷ luật”; “Các cán bộ từ chỉ huy trở xuống phải cố gắng hơn nữa trong công tác, trong học tập, từ bước đi, từ cái chào đều phải chính quy hóa, cán bộ phải tiến trước và làm gương mẫu cho các chiến sĩ".
            Các vụ việc vi phạm tán phát trên internet đều được lãnh đạo, chỉ huy các cấp của Quân đội ta xử lý nghiêm minh theo đúng Điều lệnh Quản lý bộ đội, kỷ luật quân đội, kỷ luật của Đảng và pháp luật Nhà nước. Đối với người sử dụng internet và mạng xã hội, không nên nhầm lẫn giữa hiện tượng cá biệt và bản chất, một vài sự việc cá biệt không thể làm nhòa mờ hình ảnh, phẩm chất cao đẹp của Quân đội nhân dân dân Việt Nam, một đội quân luôn từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, phục vụ.
            Nhưng, internet cũng chính là kênh thông tin, là sự phản chiếu và giám sát to lớn từ xã hội để mỗi quân nhân, mỗi cá nhân và tập thể không một phút giây nào được phép xao nhãng, lơ là việc tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất người quân nhân cách mạng, giữ gìn và phát huy bản chất tốt đẹp truyền thống Bộ đội Cụ Hồ. Bản chất ấy không tự nhiên có được mà phải luôn gắn với sự rèn luyện từ những điều nhỏ nhất. Không phải ngẫu nhiên mà hiện nay, toàn quân ta tiếp tục phát động và đẩy mạnh phong trào thi đua “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”.
            Qua các sự việc, cũng là bài học để mỗi quân nhân và các đơn vị quân đội nêu cao trách nhiệm chính trị, quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quy định của Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị về bảo vệ chính trị nội bộ, các quy định về sử dụng internet, thông tin điện tử, viễn thông. Đặc biệt, cần hết sức thận trọng, thực hiện đúng các quy định khi đăng tải, chia sẻ, bình luận những thông tin, hình ảnh liên quan đến quân đội trên internet, mạng xã hội.
                                                            NGUYỄN VĂN MINH


Thứ Tư, 14 tháng 9, 2016

SỰ MẬP MỜ CỦA MỘT VỊ TIẾN SĨ

         Mới đây, trang điện tử BBC tiếng Việt cho đăng tải đoạn phỏng vấn một vị “tiến sĩ, nhà nghiên cứu cao cấp thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á và Viện Chiến lược quốc tế tại Xin-ga-po”. Ông tiến sĩ này trả lời BBC về vấn đề đổi mới chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam là chuyển từ “một đảng lãnh đạo thành đa đảng đối lập”.

            Không hiểu vị tiến sĩ này dựa vào đâu mà luận bàn như vậy bởi Đảng ta đã công khai trước dư luận trong nước và quốc tế về công cuộc đổi mới cả về lãnh đạo phát triển kinh tế, cả về chính trị, tư tưởng của Đảng. Về kinh tế, Đảng ta nhất quán duy trì có hiệu quả nền kinh tế nhiều thành phần, không ngừng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về chính trị, Đảng ta nhất quán và quyết tâm thực hiện quan điểm tự đổi mới, tự chỉnh đốn, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Sự quyết tâm ấy được thể hiện rõ trong Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” - gọi tắt là Nghị quyết Trung ương 4. Tinh thần, nội dung của Nghị quyết Trung ương 4 đã được công khai trước toàn thể nhân dân Việt Nam và được tổ chức học tập, quán triệt, thực hiện sâu kỹ đối với mọi cán bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đều nhận thấy rằng, những nguy cơ mà Nghị quyết Trung ương 4 chỉ ra đã rất rõ, rất thật, vì vậy việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng để làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh là trách nhiệm, bổn phận của mọi tổ chức Đảng, mọi đảng viên. Với quyết tâm từ Ban Chấp hành Trung ương cho tới từng chi bộ, từng đảng viên, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã thu được những kết quả tích cực và đã được ghi nhận trong Báo cáo chính trị trình Đại hội lần thứ XII của Đảng.
            Tuy nhiên, Đảng cũng thừa nhận là trong quá trình xây dựng và chỉnh đốn Đảng, cũng còn những vấn đề cần phải rút kinh nghiệm, trong đó có kết quả về phòng, chống tham nhũng, lãng phí còn hạn chế; tình trạng chạy chức, chạy tội, suy thoái chính trị, tư tưởng vẫn tồn tại trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên v.v.. Đó là những vấn đề mà Đảng sẽ quyết liệt và nghiêm túc khắc phục trong thời gian tới, bảo đảm cho Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là một Đảng cách mạng, luôn là một khối đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động, giữ vững vai trò là lực lượng lãnh đạo xã hội như Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định.
            Từ những vấn đề trên có thể hiểu: Đổi mới về chính trị tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là đổi mới về tư duy lãnh đạo, về lề lối làm việc, đổi mới phong cách, tác phong công tác của mọi tổ chức Đảng, mọi đảng viên, nhằm bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Tuyệt nhiên không thể mập mờ cho rằng công cuộc đổi mới về chính trị, tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là chuyển từ “một đảng lãnh đạo thành đa đảng đối lập” như cách trình bày của vị tiến sĩ nọ với trang điện tử tiếng Việt của BBC.
                                                                                    TRẦN THÔN


KÝ LUẬT NGHIÊM MINH ĐỂ ĐẢNG THÊM VỮNG MẠNH

          Thời gian gần đây, trên nhiều trang mạng xã hội, một số cá nhân lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành các nhiệm vụ cụ thể của các tổ chức Đảng, thậm chí là những sai lầm, khuyết điểm của cá nhân đảng viên để chống phá, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN)...

            Thực tế cho thấy, các bài viết với mục đích chống phá Đảng CSVN không chỉ rất phiến diện, mà còn “chủ ý” góp nhặt những hiện tượng đơn lẻ để cố tình cho đó là những yếu kém thuộc về bản chất của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
            Lịch sử hơn 86 năm kể từ ngày Đảng CSVN được thành lập đã minh chứng: Đảng CSVN luôn quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Từng cán bộ, đảng viên và toàn Đảng đều coi đây là nhiệm vụ then chốt, nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đặc biệt, từ Đại hội VI của Đảng đến nay, không có nhiệm kỳ nào Trung ương Đảng không có nghị quyết về xây dựng Đảng. Cụ thể là: Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng, bảo đảm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VI”; Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII) “Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”; Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2-khóa VIII) “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Kết luận Hội nghị Trung ương 4 (khóa IX) về “Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí”; Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”. Đặc biệt, tại Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Nghị quyết đã thẳng thắn chỉ rõ 3 vấn đề cấp bách, đồng thời xác định 4 nhóm giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, tăng cường và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Một trong những vấn đề cốt lõi của công tác xây dựng Đảng chính là công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Bởi vậy, ban hành và tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) chính là Đảng đã đột phá vào công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ, một vấn đề, nhiệm vụ được Đảng CSVN xác định là “khâu then chốt của then chốt”, “nguyên nhân của nguyên nhân”. Ban hành và quyết tâm triển khai có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) không chỉ nâng cao chất lượng công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ liêm chính, mà còn thể hiện bản lĩnh của một đảng cầm quyền lãnh đạo xã hội, thể hiện quyết tâm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
            Từ chủ trương đó, trong nhiệm kỳ Đại hội XI và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đảng CSVN đã đặc biệt coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ từ Trung ương đến cơ sở. Đảng CSVN luôn trân trọng, ghi nhận và đánh giá cao sự đóng góp, cống hiến của mọi cán bộ, đảng viên, quần chúng đối với sự nghiệp cách mạng, sự phát triển của đất nước; nhưng cũng kiên quyết xử lý, đưa ra khỏi đội ngũ của mình những người vi phạm phẩm chất, đạo đức lối sống, vụ lợi, yếu kém về năng lực, cửa quyền, tham ô, tham nhũng... Trong 5 năm (chủ yếu là 4 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4), toàn Đảng đã xử lý kỷ luật gần 1.400 tổ chức Đảng và hơn 74.000 đảng viên ở các cấp. Trong số đảng viên bị kỷ luật, có 82 tỉnh ủy viên và tương đương; hơn 1.500 huyện ủy viên và tương đương; gần 3.000 đảng viên bị kỷ luật bằng hình thức cách chức; hơn 8.700 người bị khai trừ ra khỏi Đảng và hơn 4.300 cán bộ, đảng viên phải xử lý bằng pháp luật. Những hạn chế, khuyết điểm được kết luận sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình ở từng cấp đã kịp thời được giải quyết; một số vụ việc nổi cộm, bức xúc được xử lý dứt điểm. Kết quả trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) nêu trên được dư luận hết sức đồng tình, ủng hộ; góp phần củng cố niềm tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng và sự lãnh đạo của Đảng được nâng lên.
            Đặc biệt, trước thời điểm diễn ra Đại hội XII, thời điểm mà không ít người cho rằng rất “nhạy cảm”, Đảng CSVN đã chỉ đạo các cơ quan tư pháp xem xét, đưa ra xét xử 8 vụ án, vụ việc trọng điểm. Tiếp đó, ngay sau Đại hội XII, công tác phòng, chống tham nhũng được Đảng CSVN triển khai với nhiều biện pháp quyết liệt. Nhiều vụ án, vụ việc phức tạp, kéo dài tiếp tục được đưa ra xét xử công khai, đúng người, đúng tội. Chỉ xin đơn cử như vụ ông Trịnh Xuân Thanh. Ngay sau khi nắm được thông tin phản ánh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã trực tiếp chỉ đạo các cơ quan chức năng xem xét, xử lý theo đúng Điều lệ Đảng và quy định của pháp luật. Sự chỉ đạo của Tổng Bí thư nói lên quyết tâm chính trị rất cao của người đứng đầu Đảng CSVN là kiên quyết chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm trong đề bạt, bổ nhiệm, thuyên chuyển cán bộ, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong sử dụng tài sản, tiền của Nhà nước và nhân dân. Những vụ án, vụ việc, những vấn đề phức tạp được các cơ quan chức năng đưa ra xét xử thời gian qua cho thấy quyết tâm chính trị rất cao, là chuyển động của cả hệ thống nhằm làm trong sạch bộ máy, kiên quyết loại bỏ những người không đủ phẩm chất, năng lực ra khỏi đội ngũ của mình. Những việc làm kiên quyết và triệt để nói trên của Đảng được nhân dân hết sức đồng tình, ủng hộ.
            Từ những dẫn chứng nêu trên, khẳng định: Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh được Đảng CSVN xác định là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong nhiều nhiệm kỳ, với nhiều biện pháp cơ bản và quan trọng. Vì vậy, trước những diễn biến chính trị hết sức phức tạp ở nhiều nước, cùng sự chống phá quyết liệt, tinh vi của các thế lực thù địch, Đảng CSVN vẫn giữ vững vai trò lãnh đạo, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của công cuộc đổi mới, lãnh đạo đất nước vượt qua nhiều khó khăn, thách thức. Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước nên hằng ngày, hằng giờ, đội ngũ cán bộ, đảng viên vẫn lăn lộn với cuộc sống, trăn trở với những khó khăn của đất nước, của nhân dân. Trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cán bộ, đảng viên ở cấp nào cũng thể hiện rõ tính tiên phong, gương mẫu, đi đầu. Khó có thể liệt kê hết những hình ảnh cán bộ, đảng viên dầm mình trong mưa lũ cứu giúp nhân dân; những cô giáo, thầy giáo gác lại chuyện riêng tư để vượt dốc, bám bản dạy chữ cho con em đồng bào vùng sâu, vùng xa; những tấm áo, viên thuốc được mua từ những đồng tiền lương tiết kiệm dành tặng người nghèo... Đó là những điều không thể phủ nhận được.
            Tuy nhiên, nghiêm khắc nhìn nhận, trong quá trình lãnh đạo, Đảng CSVN cũng còn bộc lộ những hạn chế, thậm chí có mặt nghiêm trọng, có khuyết điểm, yếu kém phải sửa chữa cấp bách nhưng chưa khắc phục được như mong muốn, có mặt còn phức tạp thêm, gây băn khoăn, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật để có những chủ trương, giải pháp hiệu quả, xây dựng Đảng vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ không chỉ là ý muốn chủ quan của mỗi cán bộ, đảng viên, quyết tâm chính trị của toàn Đảng, mà đó còn là điều mong mỏi và sự kỳ vọng của nhân dân.
            Trong tiến hành công tác xây dựng Đảng, Đảng CSVN luôn tỏ rõ quan điểm kiên quyết xử lý nghiêm minh mọi cán bộ, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức, phẩm chất, lối sống và không có trường hợp ngoại lệ. Không chỉ xử lý những cán bộ, đảng viên vi phạm khi còn đương chức, mà bất kỳ ai, ở cương vị nào nếu vi phạm cũng đều phải chịu những hình thức kỷ luật thích đáng, kể cả khi đã nghỉ hưu, nghỉ chế độ, thuyên chuyển công tác hay giữ các chức vụ cao hơn. Kỷ luật cán bộ, đảng viên vi phạm, loại ra khỏi đội ngũ của mình những người không đủ phẩm chất, năng lực không chỉ ở cấp cơ sở, mà cả các cơ quan Trung ương, ngay cả đối với những cán bộ giữ vị trí và trọng trách quan trọng trong hệ thống chính trị.
            Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Trong những năm tới, yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng, trọng tâm là kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI”. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đề ra 10 nhiệm vụ về xây dựng Đảng và xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ, trong đó, 3 nhiệm vụ trọng tâm liên quan đến thực hiện 3 vấn đề cấp bách mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đề ra, bao gồm: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; xây dựng tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
            Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh đòi hỏi phải được tiến hành đồng bộ bằng nhiều giải pháp; kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Bởi vậy, cùng với việc phát huy tốt những kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, mỗi tổ chức Đảng, từng cán bộ, đảng viên không những chấp hành tuyệt đối nghị quyết của Đảng mà còn thẳng thắn, đấu tranh, chủ động phát hiện để loại bỏ khỏi đội ngũ của mình những người không đủ phẩm chất, năng lực. Giữ vững kỷ luật, xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm chính là góp phần rất quan trọng để Đảng CSVN ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với vị trí cầm quyền lãnh đạo xã hội, lãnh đạo đất nước phát triển trong giai đoạn mới. Loại bỏ khỏi đội ngũ của mình những người không đủ phẩm chất, năng lực không làm cho Đảng CSVN yếu đi, mà làm cho Đảng ngày càng vững mạnh.
                                                                   LÊ LONG KHÁNH    

VẪN LÀ CHIÊU TRÒ KÍCH ĐỘNG, GÂY RỐI ĐỂ CHỐNG PHÁ

         Sự cố hơn 1.000 học sinh ở xã Kỳ Hà, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh không đến trường học do cha mẹ ngăn cản là đáng tiếc. Nguyên nhân mà người dân đưa ra là bị thiệt hại từ sự cố môi trường do Formosa gây ra, không có tiền đóng học nên không cho con tới trường... Mới nghe điều này có vẻ hợp lý, nhưng sự thật lại không phải vậy.

            Chúng ta không phủ nhận sự cố môi trường ở các tỉnh miền Trung đã ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người dân. Sau sự cố môi trường đó, Chính phủ và các cấp chính quyền đã có hàng loạt biện pháp quyết liệt để kịp thời hỗ trợ người dân khắc phục hậu quả. Đảng, Nhà nước và ngành giáo dục cũng có chủ trương, biện pháp nhằm hỗ trợ, giúp đỡ, miễn giảm học phí cho các em học sinh trong vùng bị thiệt hại. Mặt khác, trên thực tế ngành giáo dục, các trường ở Kỳ Hà cũng chưa yêu cầu đóng góp và chưa thu bất cứ khoản nào của học sinh... Như vậy, lý do “không có tiền đóng học...” mà một số phụ huynh đưa ra là không thuyết phục.
            Mọi người đều biết sự cố môi trường biển gây ảnh hưởng rộng trên địa bàn 4 tỉnh miền Trung, nhưng ở các địa phương khác, trẻ em vẫn đến trường học tập bình thường. Vậy tại sao chỉ duy nhất ở xã Kỳ Hà xảy ra chuyện một số phụ huynh không cho con em đến trường?... Rõ ràng là có điều gì khuất tất đằng sau sự cố này. Khi chính quyền, cơ quan chức năng đến tìm hiểu nguyên nhân thì một số phụ huynh nói rằng: Không dám cho con đi học vì “sợ làng đánh”... Vậy “làng” ở đây là ai? Ai đứng đằng sau sự việc này? Chính những người dân được vận động, tỉnh ngộ đã cung cấp với chính quyền, cơ quan chức năng rằng: Họ đã bị một số phần tử xấu tuyên truyền, kích động, xúi giục... Được biết, những phần tử ấy đang muốn lợi dụng việc học sinh không đến trường để gây áp lực với chính quyền trong việc khắc phục sự cố môi trường. Việc làm này là không chấp nhận được, bởi lẽ vấn đề khắc phục sự cố môi trường và việc bảo đảm quyền được đi học của trẻ em là hai việc hoàn toàn khác nhau. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, trẻ em có đầy đủ các quyền cơ bản, trong đó có quyền được giáo dục, học tập. Tại Khoản 1, Điều 37 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”. Điều 5, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định về trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nêu rõ: “1. Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là trách nhiệm của gia đình, nhà trường, Nhà nước, xã hội và công dân. Trong mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có liên quan đến trẻ em thì lợi ích của trẻ em phải được quan tâm hàng đầu; 2. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân ở trong nước và nước ngoài góp phần vào sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”.  Điều 6 của luật này quy định về thực hiện quyền của trẻ em cũng chỉ rõ: “1. Các quyền của trẻ em phải được tôn trọng và thực hiện; 2. Mọi hành vi vi phạm quyền của trẻ em, làm tổn hại đến sự phát triển bình thường của trẻ em đều bị nghiêm trị theo quy định của pháp luật”... Như vậy, dù với bất cứ lý do nào thì hành vi ngăn cản con em đến trường của một số phụ huynh ở xã Kỳ Hà cũng là trái pháp luật. Trong khi toàn Đảng, toàn dân ta đang ra sức phấn đấu để làm tốt công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em mà một số người lại cố tình kích động, xúi giục những người dân nhẹ dạ, cả tin ngăn cản con em đến trường là không thể chấp nhận được. Mặc dù đa số phụ huynh đã cam kết sẽ đưa con em trở lại trường trong những ngày tới, nhưng để giữ nghiêm kỷ cương cần phải có các biện pháp xử lý triệt để sự việc. Đối với các bậc phụ huynh do nhẹ dạ, cả tin, bị kẻ xấu xúi giục, kích động hoặc do thiếu kiến thức, thiếu hiểu biết về vai trò và trách nhiệm của mình đối với sự phát triển của trẻ em và chăm sóc trẻ em mà vi phạm thì các cấp chính quyền, ngành giáo dục cần tuyên truyền, vận động để họ nhận thức ra vấn đề. Đối với những kẻ lợi dụng những khó khăn do sự cố môi trường để kích động, gây áp lực, nhằm mưu đồ chính trị, gây rối tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn, các cơ quan bảo vệ pháp luật cần vào cuộc để xử lý nghiêm trước pháp luật.
                                                                                    KIM NGỌC


BẢO VỆ LỢI ÍCH QUỐC GIA - DÂN TỘC THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XII

               Bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc là một trong những thành tố mới trong nội hàm mục tiêu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, được Đại hội XII của Đảng xác định. Đây là mục tiêu cao nhất và là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta hiện nay.
            Trong cách mạng giải phóng dân tộc, lợi ích quốc gia - dân tộc của nhân dân Việt Nam là giành độc lập dân tộc, làm điều kiện, tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực biến đổi mau lẹ, hết sức phức tạp, khó lường; chủ nghĩa dân tộc “thực dụng” ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế, sự tùy thuộc, đan cài lợi ích lẫn nhau giữa các quốc gia - dân tộc càng trở nên phổ biến,… thì lợi ích quốc gia - dân tộc bị chi phối bởi nhiều yếu tố. Tình hình đó đặt ra yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đầy đủ nội hàm về bảo vệ Tổ quốc, mối quan hệ biện chứng giữa các nội dung, đặc biệt là vị trí, vai trò, tầm quan trọng của vấn đề lợi ích quốc gia - dân tộc đối với sự tồn vong và phát triển đất nước.
            Vấn đề lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định từ rất sớm, thể hiện ở mục tiêu xuyên suốt là “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Trong giai đoạn đấu tranh giải phóng dân tộc, Đảng và nhân dân ta luôn đặt quyền lợi giải phóng dân tộc cao hơn hết thảy, khi mà quyền lợi dân tộc chưa đòi được, thì quyền lợi giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Cho nên, khi thời cơ đến, dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập dân tộc. Đó cũng là khát khao cháy bỏng, là nguyện vọng chính đáng của toàn thể dân tộc Việt Nam. Khi đã giành được độc lập dân tộc, phải quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy. Khi đất nước bị chia cắt hai miền, thì lợi ích cao nhất của dân tộc ta là đấu tranh thống nhất nước nhà, thu non sông về một mối. Khi đất nước hoàn toàn giải phóng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phải coi trọng lợi ích quốc gia - dân tộc trong từng chính sách phát triển. Trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã khẳng định: “Phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa1. Đây là một trong những bài học quan trọng, được đặt ngang hàng với những bài học về “kiên định”, “dân là gốc”, “tôn trọng khách quan”, “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”, v.v. Đồng thời, cũng là vấn đề có tính quy luật về nhận thức, đổi mới tư duy của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước nhà.
            Sự phát triển của tư duy mới về lợi ích quốc gia - dân tộc được thể hiện rõ nét nhất trong đường lối đối ngoại của Đảng ta. Trong văn kiện của các kỳ đại hội trước, Đảng ta xác định: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế của đất nước, vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Tại Đại hội XII, Đảng ta nhấn mạnh: luôn luôn coi lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng; là mục tiêu cao nhất, quan trọng nhất, có ý nghĩa định hướng hoạt động đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực. Mặt khác, quá trình hội nhập quốc tế không chỉ vì lợi ích quốc gia - dân tộc, mà phải lấy lợi ích quốc gia - dân tộc làm xuất phát điểm, đích hướng tới để lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động đối ngoại và tham gia hội nhập quốc tế của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Nghĩa là, trong hội nhập và mở rộng quan hệ quốc tế, mọi tổ chức, cá nhân không được phép xem nhẹ lợi ích của quốc gia - dân tộc, đặc biệt phải tránh những tư tưởng, hành động vì lợi ích cục bộ của ngành, lĩnh vực mà bỏ qua, bất chấp lợi ích quốc gia - dân tộc; trái lại phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết và phải bảo vệ cho được lợi ích đó trong mọi hoàn cảnh. Tất nhiên, đó không phải là tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, dân tộc cực đoan, hay bất chấp luật pháp quốc tế trong quan hệ đối ngoại, mà trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, các nguyên tắc, định chế của các tổ chức quốc tế. Thực hiện mục tiêu đã xác định, Đảng ta cũng nhấn mạnh, phải nêu cao tinh thần kiên định độc lập, tự chủ, tự lực tự cường; có kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp với lợi ích của đất nước; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đem lại lợi ích cho quốc gia - dân tộc Việt Nam. Đồng thời, xác định rõ Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.
            Mở rộng nội hàm bảo vệ Tổ quốc với nội dung “bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc” không chỉ là tư duy mới, mà còn phản ánh phương pháp giải quyết đúng đắn, hài hòa mối quan hệ giữa các lợi ích của Đảng, của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ. Đến nay, nước ta đã đặt quan hệ song phương với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế, khu vực trên thế giới. Mỗi quốc gia, dân tộc, khi tham gia tổ chức quốc tế, khu vực và hội nhập vào quá trình toàn cầu hóa, đều xác định mục đích, mục tiêu nhất định; và suy đến cùng thì đều nhằm làm gia tăng và bảo vệ lợi ích của quốc gia, dân tộc ấy, hoặc lợi ích của liên minh nào đó. Đối với các nước lớn, giới cầm quyền càng coi trọng và đề ra những chiến lược để đảm bảo lợi ích của họ trên phạm vi toàn cầu, v.v. Kế thừa, phát triển quan điểm đối ngoại trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ mục tiêu hoạt động đối ngoại của nước ta phải nhằm “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc”2. Điều đó thể hiện tầm nhìn xa, trông rộng của Đảng ta trong hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại, nhằm bảo đảm sự thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích của quốc gia - dân tộc Việt Nam với lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đồng thời, đó là nguyên tắc cao nhất trong các hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và ngoại giao nhân dân.
            Để thực hiện và bảo vệ mục tiêu tối thượng - “lợi ích quốc gia - dân tộc”, Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh “lợi ích” là một động lực quan trọng cần nhận thức và xử lý tốt cùng với các động lực khác. Trong mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam với lợi ích toàn cầu, cần giải quyết hài hòa lợi ích với các chủ thể, đó chính là các quốc gia có chủ quyền, các tổ chức quốc tế và khu vực trên thế giới. Trên cơ sở đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, phải bảo đảm sự kết hợp hài hòa các lợi ích và phương thức thực hiện các lợi ích, nhất là về lợi ích kinh tế; đồng thời, phải đảm bảo sự công bằng, hợp lý cho các chủ thể ở trong nước (cá nhân, tập thể, ngành, lĩnh vực,…).
            Quán triệt và bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải nhận thức đúng đắn, sâu sắc về tính cấp thiết của bảo vệ Tổ quốc nói chung, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc nói riêng là nhiệm vụ thường xuyên, cấp bách; đồng thời, xác định rõ vinh dự, trách nhiệm, nghĩa vụ và lợi ích của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Bởi vì, quá trình tham gia hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng thì sự đan xen lợi ích giữa các quốc gia, dân tộc càng lớn, càng phức tạp, bao hàm cả những thuận lợi và khó khăn. Đó là xu thế tất yếu khách quan, vừa mang lại nhiều lợi ích cho dân tộc, cộng đồng, nhưng cũng dễ mang đến không ít rủi ro, nhất là quá trình hội nhập về kinh tế. Bài học về vụ xả thải gây ô nhiễm môi trường biển ở 04 tỉnh miền Trung của Formosa là một ví dụ điển hình. Chính vì vậy, việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, tạo sự đồng thuận cao trong toàn xã hội, phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân là hết sức quan trọng. Trong đó, cần làm rõ, thống nhất nhận thức về chuỗi lợi ích mà chúng ta phải bảo vệ, đó là: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; bảo vệ chế độ và thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa; bảo vệ Đảng, Nhà nước và Nhân dân; bảo vệ lợi ích hợp pháp về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, con người của nước ta ở các quốc gia, khu vực khác trên thế giới…; và suy cho cùng là bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
            Bên cạnh đó, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam luôn gắn liền và phụ thuộc vào kết quả thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng trong từng giai đoạn nhất định. Do đó, phải kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đồng thời, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc trong mọi tình huống. Bởi vì, lợi ích của quốc gia - dân tộc Việt Nam phải do toàn thể nhân dân Việt Nam ra sức bảo vệ.
            Một vấn đề nữa có ý nghĩa rất quan trọng trong bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam là, phải kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn làm phương hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam. Các thế lực thù địch hiện đang triệt để lợi dụng xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế để chống phá cách mạng nước ta bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Do vậy, cùng với thực hiện đồng bộ những biện pháp bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, chúng ta phải kiên quyết đấu tranh với những âm mưu và hành động xâm hại đến lợi ích hợp pháp của dân tộc ta; trong đó, chú trọng đấu tranh bảo vệ lợi ích trực tiếp thông qua luật pháp quốc tế, định chế trong các tổ chức quốc tế, khu vực mà nước ta đã tham gia và ký kết hợp tác, bảo vệ toàn vẹn lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam, góp phần bảo vệ lợi ích của cộng đồng quốc tế trên các lĩnh vực.
            Như vậy, vấn đề “bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc” phản ánh tư duy lô-gíc, khoa học của Đảng ta về giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam với các quốc gia trên thế giới trong tiến trình hội nhập quốc tế. Từ việc “đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết”, “bảo đảm và coi lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng” đến “phải bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc” và khẳng định nước ta có đầy đủ khả năng, sức mạnh để bảo vệ toàn vẹn lợi ích quốc gia - dân tộc. Đây không chỉ là vấn đề nhận thức khoa học về mục tiêu tối thượng, mà còn là nguyên tắc bất di bất dịch, phương châm chỉ đạo hoạt động thực tiễn; đồng thời, là nhiệm vụ thiêng liêng của toàn thể dân tộc ta trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
                                      Đại tá, TS. NGUYỄN SỸ HỌA, Học viện Lục quân


Thứ Năm, 1 tháng 9, 2016

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC VÀ XÃ HỘI LÀ SỰ LỰA CHỌN TẤT YÊU CỦA LỊCH SỬ

           Những ngày gần đây, khi cả nước thực hiện các hoạt động kỷ niệm 71 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 thì trên một số mạng xã hội, các phần tử cơ hội về chính trị lại tiếp tục tán phát những bài viết có nội dung tuyên truyền, nói xấu chế độ, phản đối chủ trương, đường lối của Đảng, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Chúng cho rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là trở ngại duy nhất cho dân tộc và nền dân chủ chân chính của nhân dân” v.v.. Tóm lại, họ muốn Đảng Cộng sản Việt Nam thôi giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam, nhường quyền lãnh đạo dân tộc cho một “lực lượng chính trị mới”.

            Trước hết cần khẳng định rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là sự lựa chọn sáng suốt của lịch sử. Việc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam là sứ mệnh lịch sử mà dân tộc, giai cấp công nhân, nhân dân lao động trao cho Đảng. Lịch sử đã minh chứng, trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các phong trào yêu nước Việt Nam đã phát triển rất mạnh mẽ, sôi nổi nhưng đều thất bại, nhiều nhà yêu nước muốn tìm đường cứu nước, cứu dân tộc khỏi ách nô lệ, lầm than của thực dân, đế quốc nhưng đều không thành. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đáp ứng sự đòi hỏi của lịch sử. Đảng Cộng sản Việt Nam được lãnh tụ Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn luyện, được lý luận cách mạng - Chủ nghĩa Mác - Lê-nin soi đường, thực sự là lãnh tụ chính trị, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam. Với mục tiêu đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến, giành độc lập, tự do cho dân tộc, mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, xây dựng một xã hội mới - xã hội chủ nghĩa, một xã hội không còn áp bức giai cấp, không còn tình trạng người bóc lột người, nhân dân làm chủ xã hội, làm chủ cuộc sống của mình. Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được nhân dân ta, dân tộc ta hết lòng ủng hộ, một lòng tin theo Đảng. Trong suốt tiến trình cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, hàng vạn đảng viên cộng sản đã hy sinh trong ngục tù của thực dân, đế quốc, nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng cách mạng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam; kiên quyết một lòng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, trong khi các đảng phái của các giai cấp khác, các lực lượng chính trị khác đều tự tan rã, hoặc không được nhân dân ủng hộ, không thực hiện được mục tiêu chính trị mà họ đề ra.
            Thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh, chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam mới có đủ bản lĩnh, năng lực, uy tín kinh nghiệm lãnh đạo được cách mạng Việt Nam, đưa đất nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đã đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, thống nhất Tổ quốc, đưa đất nước quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội; khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới. Sau 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Chính trị ổn định, độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo được giữ vững; uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được củng cố và nâng cao.
Với những thành tựu vĩ đại đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 86 năm qua đã chứng minh rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày thành lập đến nay đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử mà dân tộc và nhân dân giao cho, đang phấn đấu để đủ sức hoàn thành sứ mệnh được giao trong những chặng đường cách mạng tiếp theo. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội không những không giảm đi mà ngày càng tăng lên. Càng trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp như hiện nay, càng cần có sự lãnh đạo của Đảng. Chúng ta cũng thừa nhận rằng, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta có vấp phải một số sai lầm, khuyết điểm, nhưng sau mỗi lần như vậy Đảng ta đã nghiêm khắc sửa chữa, được nhân dân ủng hộ và uy tín của Đảng càng được củng cố vững chắc thêm. Tuy nhiên, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách xuyên tạc, thổi phồng những sai lầm, khuyết điểm, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Chúng ta phải cảnh giác, tỉnh táo trước những luận điệu chống phá, xuyên tạc của các thế lực phản động, không chỉ nhìn vào một số khuyết điểm, tiêu cực xã hội mà mất lòng tin vào Đảng, vào chế độ. Phải luôn nhìn nhận, đánh giá một cách toàn diện cả thành tựu và hạn chế, cả hiện tại và tương lai, có sự phân tích và suy ngẫm một cách thấu đáo. Những hạn chế, khuyết điểm của một bộ phận cán bộ, đảng viên, những tiêu cực và tệ nạn xã hội là cái khó tránh khỏi trong quá trình phát triển của đất nước. Không thể vì một số cán bộ, đảng viên hư hỏng, thoái hóa, biến chất mà phủ nhận cả một sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Đảng. Đó là thái độ đúng đắn của chúng ta.
            Còn cái gọi là “lực lượng chính trị mới” mà các thế lực thù địch tuyên truyền muốn thay Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đất nước ta là lực lượng của các thế lực thù địch ủng hộ, nuôi dưỡng, cung cấp tài chính, ủng hộ về chính trị, quân sự, ngoại giao; là tổ chức ô hợp gồm đại diện của các lực lượng có thù hận với cách mạng, có tội ác với nhân dân, là những kẻ muốn lợi dụng dân tộc ta làm lá bài chính trị để phục vụ lợi ích vị kỷ của chúng. Việc tuyên truyền, xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với Nhà nước và xã hội của các thế lực thù địch để dọn đường dư luận, gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân ta, trong xã hội ta, đồng thời chúng cũng ra sức tranh thủ sự ủng hộ của các thế lực phản động quốc tế để gây sức ép, áp đặt các điều kiện với chúng ta... để từng bước vô hiệu hóa sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, có thế thấy rõ “lực lượng chính trị mới” mà họ tuyên truyền muốn nắm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội không phải vì nước, vì dân; mà vì quyền lợi, vì thù hận giai cấp vô sản, cụ thể là giai cấp công-nông, vì mục tiêu chính trị phản động. 
            Trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, các phương tiện thông tin đại chúng phát triển đa dạng, phong phú, tác động rất mạnh mẽ, nhanh chóng, đến mọi người dân, vì vậy, chúng ta cần bình tĩnh xem xét các vấn đề, nắm chắc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước để tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin cho chuẩn xác, tránh mắc mưu của các thế lực thù địch. Cần phải nhận rõ luận điệu cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã "hết vai trò lịch sử, không còn khả năng lãnh đạo Nhà nước và xã hội"; cần có một “lực lượng chính trị mới” để lãnh đạo cách mạng Việt Nam... là luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta đã có từ lâu. Nhưng cứ vào những dịp như: Đại hội toàn quốc của Đảng; bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, các dịp kỷ niệm lớn của đất nước như kỷ niệm 71 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 thì luận điệu trên lại được các thế lực thù địch tung ra với các hình thức, nội dung tuyên truyền tuy có khác, nhưng về bản chất là không thay đổi. Vì thế chúng ta cần nêu cao cảnh giác, góp phần đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch để bảo vệ Đảng, bảo vệ sự nghiệp cách mạng mà các thế hệ cha ông ta phải đổi bằng xương máu mới giành được.
                                                                        TRẦN VĂN HUYÊN


Ý CHÍ DÂN TỘC - SỨC MẠNH VÔ SONG

            Kỷ niệm 71 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 năm nay đúng vào dịp toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đẩy mạnh cao trào hành động cách mạng, tập trung mọi nỗ lực của toàn dân, toàn quân cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; đồng thời kiên quyết đấu tranh với nạn tham nhũng và những yếu kém, trì trệ, xây dựng một xã hội năng động, cởi mở, đáp ứng yêu cầu phát triển, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên của một quốc gia hưng thịnh thời hội nhập.

            Thành công của Cách mạng Tháng Tám mãi mãi là niềm tự hào của toàn dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Đó không chỉ là bài học về đường lối cách mạng đúng đắn, độc đáo, sáng tạo của Đảng ta và Bác Hồ, biết nắm đúng thời cơ, với đội ngũ cán bộ, đảng viên cốt cán kiên trung, dũng cảm tuyệt vời…, mà thành công lớn nhất, cội nguồn của mọi sức sáng tạo trong Cách mạng Tháng Tám là Đảng và Bác Hồ đã khơi đúng mạch nguồn, đáp ứng kịp thời khát vọng của toàn dân mong muốn đất nước sớm thoát khỏi ách nô lệ, giành được độc lập, tự do. Ước vọng của toàn dân được Đảng ta kịp thời tập hợp, tổ chức thành sức mạnh vô song của một dân tộc đang từ lầm than, nô lệ, vụt đứng lên như Phù Đổng, “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”.
            Kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, mỗi người dân Việt Nam như được sống trong không khí sôi động của mùa thu cách mạng. Cùng với thuận lợi và khó khăn, thành công và vấp váp, chưa bao giờ trong Đảng và toàn dân trỗi dậy niềm khát khao xây dựng một quốc gia hưng thịnh như hôm nay.
            Sau Đại hội lần thứ XII của Đảng và bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều giải pháp chiến lược và quyết sách quan trọng liên quan đến vận mệnh đất nước. Bài học lớn của Cách mạng Tháng Tám và cũng là bài học mang tính thời sự mà Đảng ta thực hiện, được toàn dân đồng tình ủng hộ, đó là mọi quyết sách của Đảng đều bắt nguồn từ thực tiễn và từ nguyện vọng, tâm tư cháy bỏng của quần chúng nhân dân. Chúng ta đã và đang được chứng kiến các đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống, gắn với các giải pháp đồng bộ và hành động quyết liệt đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên; về củng cố tổ chức Đảng, bộ máy hành chính các cấp, hướng tới sự toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân.
            Dù tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ… còn phức tạp và biến tướng tinh vi, cản trở sự phát triển của đất nước, song sức mạnh vô song của Đảng, của dân tộc chính là ý nguyện thống nhất của toàn dân. Bài học lớn của Cách mạng Tháng Tám đã và đang được Đảng ta đẩy mạnh thực hiện trong công cuộc đổi mới, kiến thiết đất nước, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, trong cải cách thủ tục hành chính, cùng nhiều giải pháp bảo đảm quốc phòng-an ninh và ngoại giao; về bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, chăm sóc sức khỏe, y tế, giáo dục…
            Dựa vào dân, dựa vào sức mạnh của quần chúng-đó là phương châm hành động, là kim chỉ nam mà Đảng ta kiên trì thực hiện, tạo nên sức mạnh vô song của dân tộc trong sự nghiệp kiến tạo xã hội mới, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, đạp bằng mọi trở ngại, đưa đất nước tiến bước vững chắc trên đường đổi mới, trong giai đoạn cách mạng mới, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.


LỊCH SỬ VỐN CÔNG BẰNG

             Mấy ngày vừa qua, trên một số trang mạng xã hội xuất hiện một số bài viết có tính chất xuyên tạc về ý nghĩa lịch sử và bịa đặt một số chi tiết về cuộc Cách mạng Tháng Tám của nhân dân Việt Nam. Đây là luận điệu đã cũ mèm của một số người vốn có hiềm khích với cách mạng và đang ra sức chống lại những chủ trương, chính sách của Đảng, cổ xúy cho cái gọi là “xã hội dân chủ”.

             Cứ vào dịp đất nước ta kỷ niệm ngày Cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh 2-9 thì họ lại đem vấn đề trên ra để bàn thảo. Điển hình trong số này là ông Nguyễn Đình Cống-vốn là một chuyên gia về bê tông cốt thép.
Đọc bài viết của ông Cống mọi người đều dễ dàng nhận ra rằng, những “cứ liệu” mà ông đưa vào bài viết chẳng qua là sự nhặt nhạnh theo kiểu “nghe hơi nồi chõ” mà không xuất phát từ bất kỳ công trình nghiên cứu nghiêm túc nào. Tôi đồ rằng bản thân ông Cống cũng có thể chưa bỏ công sức ra để nghiên cứu về lịch sử Việt Nam cho đến đầu đến đũa. Vì vậy, những điều ông viết ra (về lĩnh vực lịch sử) đều thiếu tính chặt chẽ, lô-gích, khác hẳn lúc ông bàn về bê tông cốt thép. Ông Cống viết rằng "... cuộc Cách mạng Tháng Tám thực chất là cướp chính phủ của ông Trần Trọng Kim..." và "việc giành chính quyền khá dễ dàng vì không phải đánh Pháp, đuổi Nhật gì cả..." là cách viết của người duy ý chí và chủ quan, là cách phổ biến về lịch sử theo kiểu tù mù để lòe bịp người đọc. 
            Thực tế lúc bấy giờ ở đất nước ta vẫn còn hàng vạn lính Nhật được vũ trang đầy đủ, chưa kể quân Tưởng, quân Anh, quân Pháp núp bóng quân Đồng minh đang nhăm nhe vào nước ta với danh nghĩa giải giáp quân Nhật. Vì thế là người dân Việt Nam, nhất là những lão thành đã từng sống trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám thì ai cũng hiểu rằng, ở thời điểm đó, một chính phủ kiểu bù nhìn của ông Trần Trọng Kim được quân Nhật dựng lên một cách vội vã từ một số người thân Nhật thì không thể đủ tầm để thu phục lòng dân, không thể đủ lực để đánh đuổi kẻ thù, trấn áp lực lượng phản cách mạng ngõ hầu giành lấy độc lập thực sự. Do đó chỉ có lực lượng vô địch của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo sáng suốt của một đảng cách mạng thì mới đủ khả năng làm điều đó. Và như lịch sử đã ghi nhận, nhân dân ta, Đảng ta đã tiến hành thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại, biến đất nước Việt Nam từ một nước thuộc địa thành một đất nước có chủ quyền, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ lên giữ vị trí chủ nhân của đất nước. Đó mới chính là lịch sử, chẳng lẽ ông Cống và một số người cố tình không hiểu?
                                                                                                  TRẦN THÔN