Thứ Tư, 31 tháng 5, 2017

KẺ PHẢN ĐỘNG ĐỘI LỐT LINH MỤC

                   Thời gian qua, địa bàn xã An Hòa, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An đã trở thành “điểm nóng” về an ninh trật tự. Nguyên nhân chính là do linh mục Đặng Hữu Nam, quản xứ Phú Yên (xã An Hòa) và linh mục Nguyễn Đình Thục lợi dụng danh nghĩa khiếu kiện đối với Công ty Formosa liên quan đến sự cố môi trường biển ở các tỉnh miền Trung liên tục kích động, tụ tập giáo dân tổ chức hoạt động tuần hành trái pháp luật.
                      Đặc biệt, trong các ngày 29 và 30-4, linh mục Đặng Hữu Nam đã ép buộc để tụ tập một số bà con giáo dân trên địa bàn nhằm rao giảng, tuyên truyền, bịa đặt nói xấu Đảng, Nhà nước và chế độ. Không chỉ vậy, vị linh mục này bằng những lời lẽ hết sức phản động đã trắng trợn bịa đặt, bóp méo lịch sử, xuyên tạc ý nghĩa thiêng liêng của Chiến thắng 30-4 và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta...
                    Luận điệu phản động, hành vi ngang ngược của linh mục Đặng Hữu Nam khiến người dân địa phương hết sức bức xúc,phẫn nộ. Hội Cựu chiến binh huyện Quỳnh Lưu đã tổ chức cuộc họp, kiến nghị chính quyền phải xử lý nghiêm hành vi chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam của vị linh mục này theo quy định của pháp luật. Kiến nghị của Hội Cựu chiến binh huyện Quỳnh Lưu nêu rõ: Đặng Hữu Nam là kẻ phản động đội lốt linh mục.
                    Đúng như phân tích của các cựu chiến binh huyện Quỳnh Lưu, luận điệu sai trái và những hành vi ngang ngược của Đặng Hữu Nam thể hiện rõ bản chất của kẻ phản động. Việc làm của Đặng Hữu Nam là hành vi phản động đội lốt linh mục, lợi dụng tôn giáo để phá hoại sự đoàn kết trong đồng bào lương-giáo, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, xuyên tạc, bóp méo lịch sử, xúc phạm, phủ nhận công lao, đóng góp của hàng chục triệu đồng bào, chiến sĩ ưu tú trong sự nghiệp đấu tranhgiải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Và mục đích cuối cùng là chống phá Đảng, Nhà nước, đi ngược lại truyền thống “Kính Chúa yêu nước” của cộng đồng Thiên chúa giáo Việt Nam.
                   Cùng với Đặng Hữu Nam, linh mục Nguyễn Đình Thục có lịch sử chống đối chính quyền. Cách đây chưa lâu, dưới sự kích động của Đặng Hữu Nam và Nguyễn Đình Thục, một số bà con giáo dân đã tụ tập, kéo vào Hà Tĩnh để kiện Công ty Formosa khiến Quốc lộ 1A ách tắc suốt nhiều giờ, buộc lãnh đạo tỉnh phải đến hiện trường kêu gọi đám đông giải tán và thực hiện quyền khiếu kiện đúng pháp luật. Từ sự kích động của Nguyễn Đình Thục, nhiều đối tượng quá khích đã dùng gạch, đá tấn công lực lượng chức năng, làm một số xe công vụ bị hư hại...
                       Trở lại sự cố môi trường biển ở các tỉnh miền Trung, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, các cơ quan chức năng cùng cấp ủy, chính quyền các địa phương đã có các giải pháp khẩn trương, cụ thể và thống nhất xử lý với việc Công ty Formosa phải bồi thường thỏa đáng... Việc tiếp tục lợi dụng sự cố này để xúi giục, kích động giáo dân tụ tập biểu tình trái pháp luật là hành vi cố ý chống phá và gây rối... Hành vi lợi dụng việc khiếu nại để tuyên truyền chống Nhà nước, xâm phạm lợi ích của Nhà nước; lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân của Đặng Hữu Nam và Nguyễn Đình Thục đã vi phạm nghiêm trọng pháp luật Việt Nam.
                       Rồi đây, các cơ quan bảo vệ pháp luật sẽ khẩn trương vào cuộc điều tra làm rõ tính chất, mức độ của vụ việc để có biện pháp xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật. Nhưng trước thực trạng như đã nêu, điều cần thiết lúc này là phải ngăn chặn ngay Đặng Hữu Nam, Nguyễn Đình Thục và những đối tượng có vai trò cầm đầu, không để những phần tử này tiếp tục tuyên truyền, kích động, gây tác động xấu đến giáo dân và tình hình an ninh trật tự trên địa bàn.
                                                                                            KIM NGỌC



TÌM HIỂU VỀ "ĐẢNG VIỆT TÂN"

              “Đảng Việt Tân” (còn gọi là Việt Nam canh tân cách mạng đảng) được thành lập ngày 10-9-1982 do Hoàng Cơ Minh-một cựu sĩ quan quân đội Việt Nam cộng hòa làm chủ tịch. Hoàng Cơ Minh vốn là một sĩ quan ngụy thất trận trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 của quân và dân ta. Sau khi bỏ chạy khỏi Việt Nam, Hoàng Cơ Minh và một số đồng bọn quay về Thái Lan lập căn cứ và tiến hành tuyển mộ những người trong các trại tị nạn để đưa đi huấn luyện, với mục đích thành lập lực lượng vũ trang phản động để đưa về Việt Nam chống phá cách mạng. Lúc mới thành lập ”đảng Việt Tân”, Hoàng Cơ Minh không phổ biến rộng rãi các hoạt động của “đảng” này, thế nên nó hoạt động khá bí mật dưới vỏ bọc của tổ chức gọi là “Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam”. Trong những năm tháng làm “chủ tịch đảng”, Hoàng Cơ Minh đã ba lần tổ chức đưa lực lượng có vũ trang xâm nhập vào Việt Nam qua hai nước Cam-pu-chia và Lào. Nhưng tất cả các lần xâm nhập của nhóm Hoàng Cơ Minh đều bị quân và dân ba nước Cam-pu-chia - Lào và Việt Nam phát hiện, chặn bắt. Lần xâm nhập thứ ba vào tháng 7-1987, toàn bộ nhóm của Hoàng Cơ Minh đã bị tiêu diệt hoặc bắt sống, trong đó Hoàng Cơ Minh do ngoan cố chống cự nên đã bị tiêu diệt.
               Cái gọi là “đảng Việt Tân” lúc đầu thành lập cũng đưa ra các “mục tiêu, chương trình hành động” nghe có vẻ khá mỹ miều, nhưng thực chất đây chỉ là một tổ chức cực đoan lấy hoạt động chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam và cách mạng Việt Nam làm trọng tâm. Ngoài ra, “đảng” này còn tiến hành các hoạt động khủng bố, bắt cóc tống tiền, sát hại những người Việt Nam ở nước ngoài không cùng phe cánh. Trong đó có việc Việt Tân đã sát hại 5 nhà báo gốc Việt Nam ở nước ngoài do các nhà báo đã có ý định tố cáo hành động “lừa đảo, làm tiền” của Việt Tân. Sự thật này mới đây (ngày 17-3-2017) lại được phơi bày trong buổi họp báo có chủ đề “Công lý cho các nhà báo bị sát hại” tổ chức tại Mỹ do ông Nguyễn Thanh Tú (con trai nhà báo Đạm Phong-một trong những người bị Việt Tân sát hại) chủ trì và diễn thuyết. Tuy nhiên, mục tiêu cao nhất của Việt Tân là phá hoại tình đoàn kết dân tộc, phá hoại sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với cách mạng Việt Nam.
                Từ năm 2004, cái gọi là “đảng Việt Tân” ra hoạt động công khai và đã tiến hành đại hội nhiều lần, tuy nhiên bộ phận gọi là “lãnh đạo đảng” vẫn là một nhóm người hoạt động ở nước ngoài. Phương pháp hoạt động của Việt Tân cũng đã có sự thay đổi, chuyển từ “cực đoan” sang “ôn hòa, bất bạo động”. Họ lợi dụng mạng xã hội, hệ thống truyền thông để khai thác các hoạt động nhằm chống phá chính quyền; chỉ đạo tay chân triệt để lợi dụng các vấn đề “nhạy cảm” trong nước để tập hợp, lôi kéo lực lượng thực hiện các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, gây mất ổn định an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Hiện nay, Việt Tân đã móc nối, lôi kéo được một số phần tử cực đoan trong nước, một số tổ chức “xã hội dân sự”, một số chức sắc tôn giáo cực đoan hòng “tạo ngọn cờ”, cầm đầu các hoạt động chống phá trong nước. Vì vậy, chúng ta cần hiểu đúng bản chất của Việt Tân để có cái nhìn đúng đắn về một tổ chức và những con người tham gia tổ chức đó.
                                                                             TRẦN THÔN

Thứ Ba, 23 tháng 5, 2017

SỰ NGỤY BIỆN VÀ DÃ TÂM CỦA CÁC NHÀ "DÂN CHỦ"

Trong khi cả dân tộc đoàn kết, thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, đẩy mạnh công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng thì một số người tự nhân danh “dân chủ” lại có những hành động ngược với sự nỗ lực cao cả đó. Tại sao vậy? Bởi họ luôn mang trong mình dã tâm hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Các nhà “dân chủ” luôn rêu rao rằng: từ khi Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng Việt Nam đến nay đã đưa đất nước chìm đắm trong cảnh chiến tranh “nồi da nấu thịt” suốt 30 năm, kìm hãm sự phát triển của đất nước, đẩy nhân dân vào cuộc sống khổ cực, v.v. Dưới góc nhìn của họ, nguyên nhân của những “sai lầm đáng tiếc” đó là Đảng Cộng sản Việt Nam, rồi quy chụp Đảng Cộng sản phải chịu trách nhiệm trước nhân dân và dân tộc. Trong khi sự thật lịch sử thì ai cũng biết là hoàn toàn ngược lại. Điều đó cho thấy, những luận điệu mà các nhà “dân chủ” với những viện dẫn méo mó, không có cơ sở là một sự xuyên tạc trắng trợn, lố bịch. Hơn thế, từ ngụy biện trên, họ còn tỏ vẻ sáng suốt chỉ ra rằng, sở dĩ Đảng Cộng sản sai lầm, năng lực lãnh đạo kém là vì đã lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động. Để “cứu dân, cứu nước” họ không thể thờ ơ, buộc phải “góp ý”, “đấu tranh” với Đảng. Họ “góp ý”, họ đấu tranh là vì nước vì dân ư? Thật nực cười cho những kẻ giả nhân, giả nghĩa “miệng nam mô bụng một bồ dao găm”.
Người Việt Nam yêu nước ở trong nước và nước ngoài không lạ gì dã tâm của những nhà “dân chủ” và cũng thấy rõ hơn qua sự chống phá quyết liệt, điên cuồng đối với Đại hội XII Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng như sự thất vọng tới nước cùng của họ khi Đại hội thành công. Vấn đề đặt ra ở đây là, chúng ta cần nghiên cứu lộ trình để làm rõ tại sao các nhà “dân chủ” tập trung chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, từ đó thấy rõ hơn dã tâm thâm độc, nguy hiểm của họ. Việc làm đầu tiên và xuyên suốt của họ là tập trung xuyên tạc, phủ định, xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Họ viện dẫn và lập luận nguyên nhân sụp đổ chế độ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đầu những năm 90 của thế kỷ trước lý do là do Đảng Cộng sản lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin làm nền tảng tư tưởng. Từ bài học kinh nghiệm đó, hiện nay hầu hết các nước đều bác bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, chỉ còn một vài nước xã hội chủ nghĩa “cứng đầu”, trong đó có Việt Nam là không thức thời, cố tình theo đuổi. Họ cho rằng: ở thế kỷ XXI mà vẫn lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin làm “nền tảng tư tưởng” là tư duy cũ, giáo điều, xơ cứng. Theo họ phải xét lại thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, nhất là những nguyên lý cơ bản về giai cấp, đấu tranh giai cấp và hình thái kinh tế xã hội, v.v. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Trước những biến cố phức tạp của tình hình, Đảng luôn kiên định chủ nghĩa Mác – Lê-nin và vận dụng sáng tạo vào Việt Nam. Ngay trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” - định đề cách mạng đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh đã viết: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin”; “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt”; “Đảng mà không có chủ nghĩa như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”. Trong văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định bài học số một là: “Phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam”. Thực tế đã chứng minh, vận dụng sáng tạo, không ngừng phát triển lý luận chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào thực tiễn nước ta là cội nguồn tạo nên những thắng lợi rực rỡ của cách mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, thành công của Cách mạng Tháng Tám (năm 1945), thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của 30 năm đổi mới là thắng lợi của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó minh chứng hùng hồn cho sức sống vĩ đại của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam - không một thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị nào có thể bác bỏ. Mọi nỗ lực phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã và đang thất bại và tất yếu sẽ như vậy.
Thực tế vừa qua cho thấy, ngay trong các nhà “dân chủ” tuy cùng có dã tâm chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng thủ đoạn cũng có những điểm khác nhau. Một số nhà “dân chủ” chống phá toàn bộ nền tảng tư tưởng của Đảng ta, tức là cả chủ nghĩa Mác – Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; số khác, thì phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, ủng hộ giữ lại tư tưởng Hồ Chí Minh. Tất nhiên, dù khuynh hướng nào thì các nhà “dân chủ” cũng đều là một giuộc với dã tâm đen tối, thâm độc, nguy hiểm. Đối với những nhà “dân chủ” phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh thì xuyên tạc rằng, Hồ Chí Minh là người du nhập vội vàng chủ nghĩa Mác – Lê-nin chứ không hề có tư tưởng cao siêu. Nhằm hạ bệ thần tượng của nhân dân ta, họ ra sức bôi nhọ, hạ thấp công lao to lớn, sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thâm độc hơn, họ tung ra luận điệu tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với học thuyết Mác – Lê-nin, v.v. Chính thế giới quan, phương pháp luận Mác – Lê-nin đã góp phần quan trọng hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên thực tế, Hồ Chí Minh luôn dựa trên nền tảng lý luận Mác-xít xem xét thế giới, đứng trên lập trường của giai cấp vô sản để vạch ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Người khẳng định “Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác – Lê-nin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác – Lê-nin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”. Hồ Chí Minh đề cao lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin; coi học thuyết đó như: “cái cẩm nang thần kỳ” với ý nghĩa là đứng trên quan điểm, lập trường, tinh thần biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin giải quyết đúng đắn những vấn đề của thực tiễn. Thực chất của việc đòi tách tư tưởng Hồ Chí Minh ra khỏi chủ nghĩa Mác – Lê-nin của các nhà “dân chủ” là thủ đoạn phủ định từng bước, tiến tới phủ định hoàn toàn. Trước hết, là phủ định chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tiếp theo phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh rồi tiến tới phủ định toàn bộ nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Chính niềm tin, sự kiên định, trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh tạo nên bản lĩnh, sức mạnh, truyền thống, uy tín của Đảng và quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp đổi mới đất nước đang đặt ra yêu cầu rất cao đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục nghiên cứu toàn diện, sâu sắc hơn nữa trên cả phương diện lý luận và thực tiễn để khẳng định giá trị vĩ đại, sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời, bảo vệ và phát triển lên tầm cao mới.
Chúng ta biết rằng, mục tiêu xuyên suốt, không thay đổi của các thế lực thù địch, trong đó có phần tử cơ hội chính trị, các nhà “dân chủ’ là xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Việc họ chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta là bước đi trong lộ trình đó - một âm mưu, thủ đoạn thâm độc của chiến lược “Diễn biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam.
HẢI ÂU        


VĂN HÓA, ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - GIÁ TRỊ BẤT DIỆT

Sở dĩ hình ảnh Hồ Chí Minh sống mãi với non sông đất nước Việt Nam, thấm sâu vào đời sống tinh thần của nhân dân tiến bộ trên thế giới, là vì những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp đã hội tụ và biểu hiện trong suốt cuộc đời hiến dâng cho cách mạng của Người.
Thực tiễn cho thấy, sức sống mãnh liệt của giá trị văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh đã thấm vào tinh thần dân tộc, hun đúc nên giá trị văn hóa, đạo đức Việt Nam và lan tỏa, hòa vào đời sống tinh thần của các dân tộc tiến bộ trên thế giới. Đó cũng là một trong những lý do Hồ Chí Minh trở thành chiến sĩ tiên phong, năng động, tích cực nhất trên thế giới, trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Ấy vậy mà một số người - những kẻ thâm thù chủ nghĩa cộng sản, cố tình chống lại sự phát triển, tiến bộ của dân tộc Việt Nam vẫn xuyên tạc, bôi xấu Hồ Chí Minh. Họ chống Đảng, chống lại sự nghiệp cách mạng Việt Nam và chống cả những giá trị tốt đẹp mà Hồ Chí Minh đã cống hiến trọn đời cho tiến bộ xã hội. Một trong những tiêu điểm chống đối rõ ràng nhất của chúng là “bôi đen” Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức. Hành động ám muội, xấu xa, bỉ ổi của họ bấy lâu nay trên các diễn đàn, tán phát trên in-tơ-nét, chẳng khác những con bọ húc đầu vào núi, bởi giá trị văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh có sức sống bất diệt, là tài sản tinh thần vô giá không chỉ của dân tộc Việt Nam, mà còn của nhân loại tiến bộ.
1. Ở Hồ Chí Minh, “nhà văn hóa” trùm lên tất cả các danh vị khác. Thực tiễn cho thấy, có người được coi là anh hùng dân tộc nhưng không phải là nhà văn hóa và ngược lại. Hồ Chí Minh có cả “hai trong một”. Người đem văn hóa phổ vào mọi mặt của đời sống xã hội, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của nó: “Lấy văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Sự nghiệp cách mạng Việt Nam đã minh chứng, văn hóa Hồ Chí Minh có trong chiến lược, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta; trong chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Đồng thời, văn hóa đó có cả trong tiếng “gầm đại bác” tiêu diệt quân thù ở Điện Biên Phủ; điệu hò của các chị, các anh dân công lội suối, băng rừng tiếp tế cho chiến trường; trong trận tiến công chiến lược làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975; trong tiếng học i, tờ của trẻ em khi cắp sách đến trường và cả trong cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại nghèo nàn và lạc hậu, v.v. Hồ Chí Minh đã mở ra một nền văn hóa mới cho dân tộc Việt Nam, huy động các tiềm năng vào việc xây dựng chế độ mới, làm rạng rỡ dân tộc Việt Nam. Nhân loại đã, đang và sẽ phấn đấu cho một tương lai tươi sáng, trong đó có việc phát huy những giá trị tốt đẹp, đấu tranh chống lại những gì phản động, lạc hậu - sự nghiệp đó chính là sự nghiệp của văn hóa, mà lực lượng nòng cốt là những danh nhân văn hóa. Điều đó cắt nghĩa vì sao những danh nhân văn hóa thế giới đều là những vĩ nhân “đi trước thời đại”, có tầm nhìn xa trông rộng, nhãn quan của họ có thể nhìn xuyên thế kỷ, với tư chất một nhà văn hóa kiệt xuất. Hồ Chí Minh là một người như vậy.
Từ vai trò định hướng sự phát triển của văn hóa, Hồ Chí Minh đã khởi đầu xây dựng một nền văn hóa mới, theo hướng: “dân tộc, khoa học và đại chúng”. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội và là sự thể hiện bản sắc, cốt cách dân tộc. Vận mệnh mỗi dân tộc luôn chịu sự chi phối, quy định bởi việc lựa chọn hướng đi. Hồ Chí Minh đã chọn cho dân tộc Việt Nam con đường: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - sự lựa chọn hợp quy luật của văn hóa. Nhờ sự định hướng đúng đắn ấy mà cách mạng Việt Nam đã huy động toàn bộ sức mạnh của dân tộc, cả quá khứ và hiện tại, kết hợp với sức mạnh thời đại, tạo động lực tinh thần to lớn thúc đẩy đất nước ngày càng phát triển. Các thế lực thù địch thường xuyên tạc rằng, Hồ Chí Minh đã đem văn hóa ngoại lai - chủ nghĩa Mác – Lê-nin - du nhập vào Việt Nam, làm cho dân tộc Việt Nam chọn sai con đường phát triển. Lập luận của họ thật cũ rích, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn, họ lấy những khó khăn hiện tại của phong trào cộng sản quốc tế để cho đó là sự thất bại của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Họ khoét sâu vào những hạn chế, khuyết điểm trong tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam để phủ nhận con đường mà Đảng, Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn. Nhưng họ không biết hay cố tình không biết rằng: quy luật phát triển tất yếu của các dân tộc trên thế giới là tiến lên chủ nghĩa xã hội, mặc dù con đường đó đối với mỗi dân tộc không bằng phẳng, mà đầy khó khăn. Vì thế, con đường phát triển của nhân dân Việt Nam chỉ duy nhất là: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - con đường mà chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã chỉ ra. Đó là giá trị bất diệt của văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh và cũng là thông điệp về sự phát triển, không thế lực thù địch nào có thể xuyên tạc được.
Trong sự phát triển của mỗi dân tộc, văn hóa (theo nghĩa rộng) điều chỉnh việc hoạch định cương lĩnh, đường lối, chính sách của hệ thống chính trị. Tính đúng đắn của cương lĩnh, đường lối, chính sách, chủ trương,… của hệ thống chính trị thường tỉ lệ thuận với trình độ văn hóa của dân tộc. Hành vi biểu hiện của tổ chức chính trị, của chính trị gia phản ánh trình độ văn hóa chính trị của tổ chức chính trị, chính trị gia đó. Vì thế, trong lĩnh vực chính trị, nếu không chú ý đến lĩnh vực văn hóa chính trị thì tư cách của người hoạt động chính trị sẽ thiếu mặt văn hóa. Với con người Hồ Chí Minh, văn hóa - đạo đức - chính trị luôn hòa quện chặt chẽ với nhau, cùng hướng tới tiến bộ xã hội, biểu hiện hành vi của Người luôn thể hiện tư cách của nhà chính trị, nhà đạo đức và nhà văn hóa kiệt xuất. Tại khóa họp lần thứ 24 của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết khuyến nghị các quốc gia thành viên kết hợp tổ chức Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam. Nghị quyết khẳng định: “Hồ Chí Minh một biểu tượng xuất sắc về sự tự khẳng định dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”. Năm 1923, khi tiếp xúc với Hồ Chí Minh, nhà báo, nhà thơ Xô - viết O-sip Man-dels-tam đã nhận xét: “Từ Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”.
Văn hóa là thước đo của sự phát triển xã hội. Vì vậy, nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh đã huy động toàn bộ sức mạnh văn hóa Việt Nam vào cuộc cách mạng, nhằm thực hiện: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Người nhấn mạnh quan điểm văn hóa trong việc khẳng định cốt cách, hay đặc tính (bản sắc) của dân tộc, của cộng đồng dân cư. Văn hóa của dân tộc Việt Nam đã tạo dựng nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh của dân tộc và làm rạng rỡ, vẻ vang cho dân tộc. Nó là thành quả hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, đồng thời là kết quả của quá trình giao lưu văn hóa với các dân tộc khác để luôn tự hoàn thiện mình. Mỗi dân tộc, quốc gia, cộng đồng dân cư, trong quá trình hình thành, phát triển, đều tạo nên một cốt cách, bản sắc văn hóa riêng biệt; nó như cái hộ chiếu, thẻ căn cước của con người. Nếu đánh mất nó thì coi như đánh mất chính mình và cộng đồng dân cư, dân tộc, quốc gia của mình, với tư cách là đơn vị văn hóa và do đó, bản sắc - cốt cách văn hóa là yếu tố bảo đảm cho các quyền cơ bản: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi quốc gia, dân tộc. Việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa, cốt cách của mình, không chấp nhận sức ép nô dịch của văn hóa ngoại lai là trách nhiệm của dân tộc.
2. Đạo đức Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, giữa nói và làm, hướng tới tiến bộ xã hội. “Đạo đức” mà Hồ Chí Minh đề cập là đạo đức mới - đạo đức cách mạng, khác hẳn với đạo đức cũ: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng được biểu hiện ở các phẩm chất, như: lòng nhân ái, tính nhân văn cao cả, trung với nước, hiếu với dân, “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, tinh thần quốc tế trong sáng, v.v. Đây là lĩnh vực nhạy cảm của văn hóa và là cái gốc của sự phát triển. Trong xã hội hiện đại, luật pháp ngày càng đầy đủ hơn, chặt chẽ hơn, nhưng ngoài luật pháp thì đạo đức giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ xã hội. Hồ Chí Minh bao giờ cũng chú ý cả “đức trị” và “pháp trị”, xử lý mọi công việc vừa có lý, vừa có tình. Với mỗi con ngư­­ời cụ thể, Hồ Chí Minh coi trọng cả đức và tài, nhưng xét về thứ tự ư­u tiên thì Người vẫn cho đức là cơ bản hơn cả. Đạo đức đối với người cách mạng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài ngư­­ời là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”. Có thể nói, cuộc đời Hồ Chí Minh như “pho sách” lớn, biểu tượng sáng ngời về đạo đức, đã lan toả, thẩm thấu, trở thành giá trị văn hóa vĩnh hằng trong các thế hệ ngư­­ời Việt Nam và nhân dân tiến bộ toàn thế giới.
Tuy vậy, có không ít ng­ười cho rằng, trong kinh tế thị trường, chỉ cần có tài thì ở đâu cũng “sống” đ­ược, cũng đóng góp của cải cho xã hội được, cho nên làm ăn kinh tế không nhất thiết cần đạo đức. Đó cũng là một cách nghĩ, nhưng chắc chắn không phải là cách nghĩ của những người cộng sản, mà Hồ Chí Minh là tiêu biểu. Bởi nó đã tách văn hóa, đạo đức ra khỏi kinh tế và như­­ vậy, con đường làm ăn kinh tế rất dễ đi vào ngõ cụt. Bởi lẽ, mọi sự phát triển đều dựa trên nền văn hóa, đạo đức; nếu không có đạo đức làm cái căn bản thì làm ăn kinh tế chỉ có chụp giật mà thôi. Thế giới càng phát triển nhanh thì người ta càng báo động mạnh hơn về tính bền vững của sự phát triển, về sự mất đi cái tính văn hóa, về sự phai nhạt dần cốt cách của từng dân tộc, về sự tha hóa của chính bản thân con người. Từ lâu, các thế lực thù địch đã ra sức đặt điều, xuyên tạc,… về đạo đức Hồ Chí Minh, nhất là về đời tư của Người. Chúng lấy đó làm phương pháp hành động chống lại cách mạng Việt Nam. Lúc thì chúng dùng biện pháp, thủ thuật tinh vi, nói xa nói gần, nói vòng vo; lúc thì nói trực diện, trắng trợn, bốp chát, cay nghiệt, chửi rủa,… cốt là để lung lạc tinh thần nhiều người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Nhưng thử hỏi và nhìn lại xem họ đã làm được những gì, lung lạc được những ai, ngoài nhóm người nhẹ dạ cả tin, lập trường hay bị dao động? Cả cuộc đời Hồ Chí Minh luôn phấn đấu vươn tới những giá trị thiện và đẹp, đó là những giá trị cao đẹp nhất mà bất kỳ ai có lương tâm trong sáng đều muốn đạt tới: hướng thiện, chân thành, nhân ái, đấu tranh vì sự tiến bộ, xả thân vì việc nghĩa, lo cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội - giai cấp và giải phóng con người. Hồ Chí Minh quan niệm rằng: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Đúng dịp kỷ niệm 39 năm Ngày thành lập Đảng (năm 1969) - năm cuối cuộc đời, Người viết bài: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” để giáo dục cán bộ, đảng viên. Trước khi đi vào cõi vĩnh hằng, Người không có điều gì phải hối hận, nhưng chỉ tiếc nuối! Tưởng là tiếc nuối về vật chất, chưa được hưởng cái này cái nọ, nhưng cái mà Người tiếc nuối là không được phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Đó là sự tiếc nuối của một nhà văn hóa, đạo đức lỗi lạc; tiếc nuối của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng. Trong Di chúc, Người viết: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. ĐOÀN VIÊN VÀ THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Có thể nói, ở đâu, lúc nào Hồ Chí Minh cũng nói, viết và làm luôn thống nhất với nhau và đều liên quan đến đạo đức. Đó là nếp sống văn hóa thư­­ờng nhật của Hồ Chí Minh. Khi cho đạo đức là cái gốc của cây, cái ngọn nguồn của sông, cái căn bản của ng­­ười cách mạng, Hồ Chí Minh trở thành một trong những ng­ười tiên phong trong cuộc cách mạng về đạo đức; đồng thời là một chiến sĩ văn hóa trong hiện thực cuộc sống. Sự thật này hoàn toàn bác bỏ những lời lẽ xuyên tạc ác độc của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh. Hơn thế, họ càng xuyên tạc, phủ nhận thì văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh càng tỏa sáng.
Hồ Chí Minh không phải là ng­­ười chuyên viết sách lý luận về đạo đức, nhưng là ng­ười Việt Nam đầu tiên đề cập đạo đức công dân trong chế độ mới, đã gắn trách nhiệm với nghĩa vụ công dân. Khi đề cập đến cán bộ, đảng viên, Người đã tác động đúng vào khâu “trọng điểm”, “trung tâm” của xã hội. Vì khi Đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên là những người tiên phong trong các phong trào cách mạng, là cái gốc của mọi công việc,­­ là dây chuyền của bộ máy. Điều đó cắt nghĩa tại sao trong “hàm lượng” Hồ Chí Minh nói, viết về đạo đức thì Người dành nhiều nhất cho cán bộ, đảng viên. Trong đời sống xã hội, mỗi người luôn có vô vàn các mối quan hệ, nó đan xen, chồng chéo, phong phú và vô cùng phức tạp. Song, tất cả được Hồ Chí Minh quy vào ba mối quan hệ chủ yếu là: đối với người, đối với việc và đối với mình; trong đó, tự mình đối với bản thân mình là khó khăn nhất và Người là gương sáng tự mình làm chủ bản thân mình về văn hóa, đạo đức, từ thuở hàn vi cả đến khi là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước. Bản chất đạo đức Hồ Chí Minh chính là chủ nghĩa nhân đạo truyền thống kết hợp và tiếp nối chủ nghĩa nhân đạo hiện đại tiến bộ, thể hiện đậm nét truyền thống nhân ái, tính chiến đấu không khoan như­­ợng với cái xấu, cái ác, hướng con người tới cái thiện, cái tốt, cái đúng. Đặc tr­ưng đạo đức Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, giữa nói và làm, nhiều khi làm nhiều hơn nói, “học” đi đôi với “hành”, lý luận gắn liền với thực tiễn, v.v. Đó là những cặp chỉnh thể, nếu thiếu một vế sẽ là vô nghĩa.
Vẫn còn đó những cán bộ, đảng viên không làm tròn nhiệm vụ, thậm chí có một bộ phận không nhỏ đang suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; một số phạm phải những tiêu cực, như: tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa rời quần chúng,… nhưng không phải như các thế lực thù địch dựa vào đó, hoặc căn cứ vào cá nhân cán bộ, đảng viên hư hỏng để rồi bôi xấu Đảng ta. Vì theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì Đảng cũng từ trong xã hội mà ra, trong Đảng cũng bị lây ngấm những cái xấu từ bên ngoài vào, nhưng Người tin Đảng ta - Đảng của đạo đức và văn minh - sẽ giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên làm tròn nhiệm vụ của mình.
GS, TS. MẠCH QUANG THẮNG

PHONG CÁCH TỰ PHÊ VÀ PHÊ BÌNH CỦA BÁC

             Phong cách Hồ Chí Minh được thể hiện phong phú trên tất cả các lĩnh vực trong suốt chặng đường hoạt động, công tác của Người. Phong cách tự phê bình và phê bình là một trong hệ thống chỉnh thể đó, đến nay còn nguyên giá trị để chúng ta suy ngẫm, học tập noi theo, nhất là trong công tác xây dựng Đảng.  
            Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc tự phê bình và phê bình. Bởi, đó chính là phương tiện để xây dựng và củng cố sự đoàn kết thống nhất, là quy luật phát triển của Đảng. Theo Người, trong sinh hoạt và trong hoạt động thực tiễn, ai cũng có ưu điểm và khuyết điểm, cái hay và cái dở, cái thiện và cái ác, cái tiến bộ và cái lạc hậu. Vì vậy, phải biết động viên, khuyến khích làm cho phần tốt có điều kiện phát huy, nảy nở và làm cho những thói hư, tật xấu mất dần, không có đất sinh sôi. Muốn làm được điều đó, thang thuốc hay nhất là tự phê bình và phê bình. Chỉ có thực hiện tốt tự phê bình và phê bình thì mỗi cán bộ, đảng viên mới nhận rõ: ta và địch, cái ưu và cái khuyết, cái đúng và cái sai, cái tốt và cái xấu, cái tiên tiến và cái lạc hậu, cái nên làm và không nên làm, v.v. Người chỉ rõ: “Chúng ta phải ráo riết dùng phê bình và tự phê bình để giúp nhau chữa cho hết những bệnh ấy. Có như thế Đảng mới chóng phát triển. Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình. Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình. Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau”.
             Để làm tốt công việc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng, Hồ Chí Minh nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên trước tiên phải có thái độ thành khẩn, phải trung thực và kiên quyết, phải xuất phát từ cái tâm trong sáng của mỗi người, phải thật thà, dũng cảm không thêm bớt, không che giấu khuyết điểm của mình. Có như vậy tổ chức đảng mới mạnh, mỗi cán bộ, đảng viên mới tốt hơn. Cách phê bình phải thành thật, giàu lòng nhân ái, khách quan. Thái độ phê bình phải có văn hóa, mang tính xây dựng chứ không phải chì chiết, nói xấu nhau hoặc trù dập, “đao to, búa lớn”. Điều hết sức nguy hiểm là, một số người lợi dụng nguyên tắc này để thực hiện những mưu đồ vụ lợi cho cá nhân, gây mất đoàn kết, chia rẽ nội bộ, hạ thấp uy tín của người khác,… Người chỉ rõ: đây chính là “kẻ địch bên trong”, là bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ, địch bên trong đáng sợ hơn vì nó phá hoại từ bên trong ra. Vì vậy ta phải hết sức đề phòng những kẻ địch đó, phải chữa hết những thứ bệnh đó. Người căn dặn: “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ, cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn, cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ. Vì vậy phê bình mình cũng như phê bình người khác ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời chớ dùng những lời mỉa mai chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm chứ không phải phê bình người. Những người bị phê bình thì phải vui lòng nhận xét để sửa đổi không nên vì bị phê bình mà nản chí hoặc oán ghét”.
               Đặc biệt, trước lúc đi xa về cõi vĩnh hằng, trong Di chúc, Người căn dặn  “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu nhau”. Như vậy, chỉ có tình đồng chí thương yêu nhau mới có thể nhìn nhận trong sáng và chỉ rõ cho nhau khuyết điểm một cách chân tình và thẳng thắn; chỉ có tuân thủ nguyên tắc tự phê bình và phê bình thì Đảng mới giữ được sự trong sạch, vững mạnh, mới hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, giữ gìn tư cách của một đảng chân chính.
              Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nói, viết để giáo dục cán bộ, đảng viên về tự phê bình và phê bình mà Người còn thể hiện tinh thần đó một cách mẫu mực - phong cách Hồ Chí Minh. Nét đặc sắc nhất trong phong cách tự phê bình và phê bình của Bác là thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm, đúng nguyên tắc và nêu gương trước cấp dưới, trước quần chúng. Tại buổi Lễ bế mạc lớp Bổ túc trung cấp tháng 10-1947, Bác nói: “Tự phê bình rồi lại phải phê bình người khác nữa... Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ “nể Cụ” không nói, là tôi mang nhọ mãi. Nhọ ở trên trán thì không quan trọng, nhưng nếu có vết nhọ ở trong óc, ở tinh thần, mà không nói cho người ta sửa tức là hại người...Thấy cái xấu của người mà không phê bình là một khuyết điểm rất to. Không phê bình, tức là để cho cái xấu của người ta phát triển”. Lời của Người mộc mạc mà chí lý, giản dị mà sâu sắc, thẳng thắn mà có tính thuyết phục cao. Phong cách tự phê bình của Người không chỉ thể hiện vai trò gương mẫu của vị Chủ tịch Đảng, mà còn chỉ cho mọi cán bộ, đảng viên thấy tác hại của việc không phê bình; đồng thời, khuyến khích mọi người mạnh dạn phê bình, không nên vì “nể” mà phá vỡ nguyên tắc trong phê bình dẫn đến sự nguy hại lớn cho Đảng.
Đặc điểm nổi bật nhất trong phong cách tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh là giản dị, trong sáng, dễ hiểu, diễn đạt ngắn gọn, chân thật, dân chủ, tôn trọng quần chúng. Điều này giúp cho mọi người rất dễ nhớ để học tập và làm theo Bác. Ngày 30-5-1957, khi nói chuyện với cán bộ, đảng viên và thanh niên Hải Phòng, Người ân cần nói: “Phê bình phải dân chủ, nghĩa là Bác phê bình các cô, các chú, trái lại các cô, các chú có thể phê bình Bác, có cái hay phải học, cái khuyết điểm thì phê bình. Các cô, các chú yêu Bác, muốn Bác tiến bộ thì phải phê bình”. Phong cách đó của Người thể hiện sự gần gũi, yêu thương nhau giữa các thành viên trong một đại gia đình lớn; vừa mềm dẻo, vừa cương quyết để đạt được mục đích của tự phê bình và phê bình mà không “cứng rắn, mệnh lệnh, ép buộc” dẫn đến hiệu quả thấp, thậm chí phản tác dụng. Phong cách trên của Bác còn thôi thúc mọi người tích cực, tự giác tự phê bình và phê bình, coi việc làm này như cơm ăn, nước uống hằng ngày để giúp nhau cùng tiến bộ.
             Có thể nói, phong cách, phương pháp trong tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện vô cùng sinh động, tự nhiên, độc đáo, rất dân chủ, hết sức tinh tế, đầy tính nhân văn, thấm đậm tinh thần yêu thương đồng chí, yêu thương con người, trọng dân, vì dân. Chính vì thế mà có sức thu hút, cảm hóa kỳ diệu, lan tỏa rộng không chỉ trong Đảng mà còn trong cả mọi tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận, đoàn kết, thống nhất cao trong thực hiện  nguyên tắc tự phê bình và phê bình - vũ khí sắc bén để xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh. Những nét đặc sắc về tư tưởng, phong cách của Người được đồng chí Phạm Văn Đồng khái quát: “Mọi lời nói, việc làm của Hồ Chí Minh đều thiết thực và cụ thể. Nói là làm, thường là làm nhiều hơn nói, có khi làm mà không cần nói, tư tưởng hiện ra trong hành động”.
Thực hiện tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn xác định tự phê bình và phê bình là một trong những nguyên tắc cơ bản, vũ khí sắc bén, là động lực, quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đã đặt việc tự phê bình và phê bình lên vị trí hàng đầu, là khâu có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt trong triển khai để thực hiện mục tiêu: tạo sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, nhằm xây dựng Đảng ta thật sự là Đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân. Quan điểm, chủ trương đó lần nữa được Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) khẳng định: tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh; cấp trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức tạp, nơi có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
               Để thực hiện thắng lợi mục tiêu nghị quyết đề ra, chúng ta phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó đòi hỏi từng cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên trong tự phê bình và phê bình cần phát huy hơn nữa tinh thần: tự giác, trung thực, xây dựng; biến tư tưởng thành ý chí hành động cách mạng, việc làm cụ thể; lấy việc thực hiện nghị quyết làm động lực thúc đẩy trong thực thi nhiệm vụ, trong công tác và cuộc sống hằng ngày; không nên hô hào, chỉ nói mà không làm hoặc nói nhiều làm ít. Gắn thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; thực hiện nghiêm chế độ tự phê bình và phê bình, để chỉ rõ và ngăn chặn kịp thời những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đồng thời, phải đề cao ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện gắn chặt với cuộc chiến phòng, chống tham nhũng hiện nay theo pháp luật, không được lợi dụng phê bình để trù dập hoặc bảo vệ “lợi ích nhóm”.
              Đó cũng chính là hành động thiết thực trong học tập và làm theo phong cách tự phê bình và phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với nguyên tắc. Và đó cũng chính là một trong những nhân tố quan trọng, quyết định nhất đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng hiện nay.
                                                                                                        PHIẾM ĐÌNH

Thứ Hai, 15 tháng 5, 2017

CẢNH GIÁC TRƯỚC MƯU ĐỒ LỢI DỤNG VẤN ĐỀ "TÔN GIÁO" ĐỂ KÍCH ĐỘNG, GÂY RỐI, PHÁ HOẠI

            Cùng với vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, các thế lực thù địch đang lợi dụng vấn đề “tôn giáo” để tạo sự chống phá đa diện nhằm vào Đảng và chế độ ta. Mục đích của việc lợi dụng vấn đề này là để kích động, gây rối, phá hoại, gây mất ổn định chính trị - xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hãy cảnh giác, đấu tranh làm thất bại mưu đồ đen tối đó!
Việt Nam là nước đa tôn giáo. Mặc dù nguồn gốc, đặc điểm và thời điểm hình thành, phát triển của mỗi tôn giáo có khác nhau, nhưng nhìn chung các tôn giáo luôn có tinh thần bao dung, đoàn kết, gắn bó trong đại gia đình các dân tộc, tôn giáo Việt Nam. Cộng đồng các tôn giáo ở Việt Nam luôn đồng hành cùng dân tộc, hòa chung cùng niềm vui và nỗi đau của dân tộc trong những thời khắc lịch sử, góp phần phát triển và làm rạng rỡ nền văn hóa Việt Nam phong phú, đa dạng và đặc sắc. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tôn giáo đã đóng góp xứng đáng vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược và tiếp tục phát huy trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều chức sắc tôn giáo, tăng ni, phật tử đã làm tốt việc đạo, việc đời, hướng dẫn tín đồ chấp hành đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, sống “tốt đời, đẹp đạo”, “kính Chúa yêu nước” được ghi nhận và tôn vinh.
Nhận thức đúng vai trò của các tôn giáo và các tín đồ tôn giáo, Đảng và Nhà nước ta luôn có quan điểm, chính sách đúng đắn về vấn đề này và khẳng định: “Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”; trên cơ sở đó, thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hệ thống giáo lý, giáo luật và quy định của pháp luật Việt Nam. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc hoặc những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái quy định của pháp luật. Chính sách tôn giáo đúng đắn đó đã có tác dụng cổ vũ, động viên đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo phấn khởi, chung sức, chung lòng cùng cộng đồng, làm tròn nghĩa vụ, trách nhiệm công dân đối với Tổ quốc.
Thế nhưng với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, thù địch và dã tâm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thế lực thù địch, phản động đang điên cuồng chống phá Đảng, Nhà nước ta thông qua chiến lược “Diễn biến hòa bình” với mọi thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Trong đó, lợi dụng vấn đề “tôn giáo” được chúng sử dụng như một vũ khí đặc biệt quan trọng để xuyên tạc, vu khống, kích động, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm mất ổn định chính trị - xã hội, tiến tới chuyển hóa chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Phương thức hoạt động chủ yếu của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị là kích động tâm lý mặc cảm, tư tưởng chống đối, hậu thuẫn về vật chất, tinh thần đối với những phần tử bất mãn, cực đoan, quá khích trong các tôn giáo; thúc đẩy thành lập các hội đoàn trái pháp luật trong xứ đạo để thách thức, chống phá chính quyền. Cùng với đó, chúng tiến hành các hoạt động chiến tranh tâm lý, phá hoại tư tưởng, gây hoang mang dư luận về sự đối lập hệ tư tưởng giữa “hữu thần” với “vô thần”, giữa thế giới quan tôn giáo với thế giới quan cộng sản hoặc vu cáo, xuyên tạc “Cộng sản diệt đạo”, “Nhà nước đàn áp tôn giáo”; từ đó, kích động mâu thuẫn, tập hợp lực lượng, tổ chức biểu tình, gây rối trật tự, mất ổn định an ninh chính trị, an toàn xã hội trên địa bàn, v.v.
Đáng chú ý, thời gian qua, lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý, điều hành xã hội của chính quyền các cấp về vấn đề đầu tư, ô nhiễm môi trường, giải phóng mặt bằng, đền bù giải tỏa, … các phần tử cực đoan trong tôn giáo nói chung, công giáo nói riêng, ra sức “bới lông, tìm vết”, tổ chức các hoạt động vi phạm pháp luật Nhà nước, trái với giáo lý tôn giáo. Mới đây, trên trang mạng tiếng Việt của một hãng truyền thông nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam tung lên bài viết “Ô nhiễm môi trường đe dọa ổn định ở Việt Nam”, xuyên tạc rằng: “… hầu hết người Việt Nam bất bình với Đảng Cộng sản đã cho phép một công ty nước ngoài xả độc ra biển. Nhiều người dân miền Trung đã tham gia các cuộc biểu tình đòi Formosa và Chính phủ bồi thường quyền lợi thích đáng. Kể cả nhiều người không bị ảnh hưởng vì thảm họa này cũng bày tỏ sự bất bình. Điều này là đáng sợ đối với Đảng Cộng sản Việt Nam”(!), v.v. Thế là ngay lập tức, những kẻ bất đồng chính kiến, những “nhà đấu tranh dân chủ”, một số tổ chức phản động nhân cơ hội này “theo đóm ăn tàn”, “tát nước theo mưa” nhao nhao hô hào, cổ súy “thúc giục mọi người chung tay để đấu tranh với vấn đề Formosa”. Lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta và được sự tiếp tay của các thế lực phản động bên ngoài, những kẻ cực đoan đội lốt tôn giáo kêu gọi, kích động giáo dân tụ tập, biểu tình, tuần hành, gây rối, tấn công người thi hành công vụ, đập phá phương tiện, cản trở hoạt động giao thông, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Khi chính quyền thực thi chức trách theo quyền hạn thì chúng vu cáo cơ quan chức năng “đàn áp, bắt giữ và đánh đập” người tham gia biểu tình; tán phát trên mạng xã hội “Thư ngỏ”, “Bản lên tiếng”, “Kháng thư”,… với nội dung vu cáo chính quyền bao che cho Formosa, “đàn áp, đánh đập” những người đi khiếu kiện đòi quyền lợi, kêu gọi người dân khởi kiện Formosa ra Tòa án hình sự quốc tế, “cùng đứng lên đuổi Formosa khỏi Việt Nam”, v.v.
Với mưu đồ chống phá đến cùng, những kẻ cực đoan đội lốt tôn giáo đẩy mạnh tuyên truyền, kích động “con chiên ngoan đạo” rằng: “Không ngừng duy trì nhiệt huyết và tính liên tục của các cuộc tuần hành, tụ tập đông người phản đối chính quyền và yêu cầu Formosa ra khỏi Việt Nam vào chủ nhật hằng tuần. Các cuộc tuần hành cần tập trung vào một số địa điểm nhạy cảm, đông người, như: nhà riêng các lãnh đạo địa phương, công sở, khu công nghiệp, … tại Nghệ An, Hà Tĩnh. Lấy vụ việc Formosa làm điểm nhấn để tăng cường khoét sâu mâu thuẫn giữa giáo dân nói riêng và nhân dân nói chung với chính quyền địa phương” và ủng hộ cái gọi là “cuộc chiến” hiện tại của giáo dân. Không những thế, họ còn thay đổi phương thức đấu tranh sao cho bảo đảm tính thường xuyên, liên tục và sinh hoạt, hoạt động sản xuất của giáo dân. Mưu đồ của họ là “chia giáo xứ thành nhiều bộ phận theo các họ đạo, thay nhau đấu tranh vào các ngày nghỉ, ngày chính quyền tổ chức cấp phát tiền đền bù, khi cần thiết mới huy động toàn xứ đạo tham gia; thay đổi quy luật, cách thức đấu tranh, làm tốt công tác chuẩn bị nhưng không để lộ bí mật, không để chính quyền và số người “bán Chúa cầu vinh” nắm thông tin, tổ chức ngăn chặn, v,v.
Tiếp tay cho hành động đó, Ủy ban Tự do Tôn giáo quốc tế/BNG (USCIRF) đã công bố tài liệu tổng kết tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam, với những đánh giá thiếu khách quan khi cho rằng: Việt Nam chưa thực sự tôn trọng quyền tự do tôn giáo. Tình trạng xâm phạm tự do tôn giáo vẫn diễn ra, nhiều nơi chính quyền địa phương và lực lượng an ninh thường xuyên sách nhiễu, phân biệt các tổ chức tôn giáo, bắt giữ những người “đấu tranh” cho tự do tín ngưỡng tôn giáo; đề nghị Chính phủ Mỹ cần sớm đưa Việt Nam trở lại danh sách những nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo (CPC). Cùng với đó, các thành viên của cái gọi là “Đảng Việt Tân”, trú tại Mỹ thông qua các trang mạng tuyên truyền, xuyên tạc rằng: đến thời điểm hiện tại (ngày 16-3-2017), Chính phủ Việt Nam “mới đền bù thiệt hại được một phần cho ngư dân, số tiền còn lại các cơ quan chức năng của Việt Nam gửi ngân hàng để chia chác kiếm lợi”; đồng thời, yêu cầu Việt Nam “đóng cửa” Công ty Formosa!,v.v. Thật nực cười! Chẳng hiểu họ lấy thông tin từ đâu, với tư cách gì mà có những nhận định và đòi hỏi hồ đồ như vậy. Phải chăng đây là hành động “vì dân, vì nước” của các nhà dân chủ, tổ chức lưu vong? Không, hoàn toàn không! Thực chất đó là những luận điệu lạc lõng, hại dân, hại nước, trò “lập lờ đánh lận con đen”, “đổ thêm dầu vào lửa” hòng đánh lừa dư luận, can thiệp vào tình hình tôn giáo ở Việt Nam, nhưng không che mắt được ai. Hành động của họ không vì cuộc sống của đồng bào ngư dân miền Trung mà chỉ là nhằm lợi dụng “vấn đề formosa” để kích động chống Đảng, Nhà nước và chế độ ta!
Chúng ta đều biết, đã gần một năm trôi qua, sự cố ô nhiễm môi trường biển miền Trung do Formosa gây ra là một thảm họa lớn nhất xảy ra tại Việt Nam từ trước đến nay. Để khắc phục hậu quả đó, Đảng, Chính phủ, các ban ngành Trung ương và cấp ủy, chính quyền địa phương đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt bằng các giải pháp đồng bộ nhằm sớm ổn định cuộc sống và lao động của bà con ngư dân các tỉnh miền Trung. Với nỗ lực đó, đại diện Công ty Formosa đã phải công khai nhận trách nhiệm và hứa sẽ không tái phạm; đồng thời, cam kết bồi thường 500 triệu USD (tương đương hơn 11.000 tỷ đồng Việt Nam) để khắc phục sự cố nghiêm trọng này. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định về mức bồi thường thiệt hại cho bà con ngư dân tại 4 tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế bị thiệt hại vì sự cố môi trường biển, theo 7 nhóm đối tượng, gồm: Khai thác hải sản; nuôi trồng thủy sản; sản xuất muối; hoạt động kinh doanh thủy sản ven biển; dịch vụ hậu cần nghề cá; dịch vụ du lịch, thương mại ven biển; thu mua, tạm trữ thủy sản. Các địa phương trong diện được đền bù đã thành lập ban quản lý, điều hành cấp phát cho bà con theo các nhóm đối tượng; Quy chế Dân chủ ở cơ sở được phát huy; những nơi làm chưa đúng được phát hiện và chấn chỉnh kịp thời. Đến nay, hầu hết những người bị thiệt hại đã được đền bù và đều hài lòng, phấn khởi trước sự quan tâm hỗ trợ thỏa đáng của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp, tạo niềm tin vững chắc để họ tiếp tục yên tâm bám biển, vươn khơi đánh bắt hải sản, cải thiện cuộc sống gia đình, góp phần xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Thực tế là vậy, nhưng các thế lực phản động, phần tử cực đoan trong tôn giáo không những không thừa nhận, mà còn cố tình lờ đi như người không có mắt, hơn thế còn ra sức xuyên tạc, bịa đặt, “bóp méo sự thật”, “đổi trắng thay đen” về những gì đang diễn ra trên mảnh đất này. Thật nực cười, trớ trêu!
Sự chống phá quyết liệt của những kẻ cực đoan trong tôn giáo cùng sự “hà hơi, tiếp sức” của các thế lực thù địch bên ngoài nguy hiểm ở chỗ làm cho một số người “nhẹ dạ cả tin” trong bà con giáo dân lầm tưởng rằng việc làm đó là đi theo “tiếng gọi của Chúa” mang phúc lộc cho các con chiên ngoan đạo để rồi nghe lời xúi giục kích động của họ tham gia tụ tập, biểu tình, gây rối vi phạm pháp luật.
Chúng ta hãy cảnh giác, chủ động và tích cực đấu tranh lật tẩy những mưu đồ đen tối, những kẻ đeo mặt nạ trá hình đội lốt tôn giáo trước ánh sáng công lý và pháp luật. Đó việc cần làm nhất thiết phải làm của tất cả những người Việt Nam yêu nước./.
TRÁNG A LÂM


CHIÊU BÀI MỚI CỦA "DIỄN BIẾN HÒA BÌNH"

Kêu gọi “Việt Nam không cần chống diễn biến hòa bình nữa”(!) đang là chiêu bài mới của các thế lực chống cộng, nhưng cũng mê hoặc được không ít người. Chúng ta cần nhận diện rõ chiêu bài này, để không mắc mưu.
Thủ đoạn mới, mục đích cũ
Từ chỗ phủ nhận sự hiện diện của chiến lược “Diễn biến hòa bình”, coi đó là “con ngáo ộp” mà Đảng Cộng sản Việt Nam “hù dọa” nhân dân; gần đây, những người thiếu thiện chí với sự lãnh đạo của Đảng lại khẳng định: “Việt Nam không cần chống diễn biến hòa bình nữa”(!). Thế là từ phủ nhận, nay lại thừa nhận, nhưng để dễ bề lừa gạt dư luận và làm cho mọi người mất cảnh giác, họ nói rằng: “Chiến lược này đã kết thúc sứ mệnh, do các “cựu thù” đã thành đối tác toàn diện hay đối tác chiến lược của Việt Nam”(!).
Luận điểm này được tuyên truyền rộng rãi trên các trang mạng xã hội và các phương tiện truyền thông phương Tây, nhất là sau các sự kiện: Việt Nam và Mỹ tuyên bố thiết lập quan hệ đối tác toàn diện (tháng 7-2013) trong chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang; Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Mỹ B. Ô-ba-ma lần lượt đến Hoa Kỳ và Việt Nam trong các chuyến thăm chính thức (tháng 7-2015 và tháng 5-2016). Thêm nữa, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng…” cũng được người ta che giấu mối liên hệ giữa “diễn biến hòa bình” với “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, để xuyên tạc rằng: “Hiện nay, Đảng không còn yêu cầu chống diễn biến hòa bình nữa, mà tập trung vào chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên”(!).
Có thể khẳng định ngay rằng, sự thay đổi thái độ nói trên chỉ là thủ đoạn mới, nhằm thực thi chiến lược “Diễn biến hòa bình” trong bối cảnh mới ở Việt Nam có hiệu quả hơn. Thủ đoạn đó rất tinh vi và vô cùng nguy hiểm, bởi nó sẽ tạo nên sự mơ hồ, mất cảnh giác trong cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, nhất là những người không biết tường tận về bản chất, thủ đoạn của chiến lược này. Trên cơ sở đó, họ có thể đạt được mục đích cuối cùng là thủ tiêu chủ nghĩa xã hội, như chính cựu Tổng thống Mỹ R. Ních-xơn tuyên bố trong cuốn sách “1999 - chiến thắng không cần chiến tranh”. Vì thế, trong khi “thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”1, chúng ta phải thường xuyên đề cao cảnh giác, kiên trì thực hiện phương châm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”, kiên quyết làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Cuộc chiến vẫn tiếp diễn
Cuộc chiến chống “diễn biến hòa bình” vẫn còn tiếp tục, bởi các lý do: Trước hết, do mục đích cuối cùng và xuyên suốt mà chiến lược “Diễn biến hòa bình” đặt ra là xóa bỏ hoàn toàn chủ nghĩa xã hội vẫn còn ở phía trước. Nhìn lại quá trình hình thành và hoàn chỉnh chiến lược “Diễn biến hòa bình” có thể thấy: từ khi chỉ là ý tưởng (cuối những năm 40 của thế kỷ XX), đến khi trở thành chiến lược hoàn chỉnh (cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX), “Diễn biến hòa bình” bao giờ cũng là bộ phận quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chủ nghĩa đế quốc, nhằm mục đích xóa bỏ hoàn toàn chủ nghĩa xã hội trên mọi phương diện; dù cho đó chỉ là một hệ tư tưởng, một xu thế phát triển, một phong trào hiện thực, hay là một hình thái kinh tế - xã hội, một hệ thống giá trị đã tồn tại, v.v. Do vậy, một khi chủ nghĩa xã hội còn, dưới hình thức nào, thì chiến lược “Diễn biến hòa bình” chưa vãn hồi sứ mệnh như người ta lòe bịp. Theo đó, cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” của các lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình và chủ nghĩa xã hội vẫn tiếp tục diễn ra, như một tất yếu. Và đương nhiên Việt Nam không phải là ngoại lệ.
Thứ hai, đây là cuộc chiến khó phân biệt chiến tuyến, nhưng diễn ra một cách dai dẳng, rất quyết liệt, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. “Diễn biến hòa bình” là sự kế tục thứ chính trị của các thế lực chống cộng, nhưng bằng thủ đoạn phi vũ trang; phản ánh tính chất phức tạp, lâu dài của cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản phản động. Sử dụng những cuộc tiến công “ngầm”, “mềm” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; thông qua các chiêu bài “tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”… kiểu Mỹ, “diễn biến hòa bình” hướng mục tiêu vào xây dựng các nhân tố đối lập với Đảng Cộng sản và các giá trị của chủ nghĩa xã hội ngay trong lòng các nước xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó mà thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ các nước này. Phương châm thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” là kết hợp phá từ trong nội bộ với hỗ trợ từ bên ngoài; kết hợp tạo sự chuyển hóa từ bên trong và bên trên với bạo loạn, lật đổ khi có thời cơ, để xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì thế, các thủ đoạn của “diễn biến hòa bình” rất tinh vi, khó thấy, khó phân tuyến, diễn ra dai dẳng, qua nhiều thế hệ. Chính cựu Tổng thống Mỹ R. Ních -xơn, trong cuốn sách của mình, đã khẳng định: “Về lâu dài, chúng ta có thể khuyến khích “diễn biến hòa bình” trong nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa, song nhiệm vụ đó không thể hoàn thành trong mấy chục năm mà phải làm trong nhiều thế hệ”. Để triển khai tư tưởng chiến lược đó ở Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động nuôi hy vọng dùng “cộng sản con lật cộng sản cha”. Vì thế, đây là cuộc chiến không hồi kết, một khi Việt Nam vẫn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, Việt Nam vẫn đang là một trọng điểm chống phá bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động. Là quốc gia đang tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, với vị trí địa chiến lược ở Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương, Việt Nam luôn được các thế lực thù địch coi là một trọng điểm chống phá bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”. H. Kít-xinh-giơ, nguyên Ngoại trưởng, Cố vấn an ninh của Tổng thống Mỹ, từng nói: “Những người cộng sản Việt Nam đã thắng trong chiến tranh, nhưng họ sẽ thua trong hòa bình. Trước đây, cộng sản dùng súng để đuổi người Mỹ ra khỏi Sài Gòn, ngày nay người Mỹ sẽ dùng đô-la để đuổi cộng sản ra khỏi Sài Gòn”2. Ngay trong Tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam (11-7-1995), Tổng thống Mỹ B. Clin-tơn cũng không giấu ý đồ chuyển hóa chế độ chính trị ở Việt Nam, khi nói: “Tôi tin rằng việc bình thường hóa và tăng cường các cuộc tiếp xúc giữa người Mỹ và người Việt Nam sẽ thúc đẩy sự nghiệp tự do ở Việt Nam, như đã từng diễn ra ở Đông Âu và Liên Xô trước đây”. Còn phát biểu tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia, nhân chuyến thăm Việt Nam, Tổng thống Mỹ B. Ô-ba-ma không quên “gợi ý” Việt Nam thực hiện các vấn đề về nhân quyền, như: “tự do ngôn luận”, “tự do lập hội”, “tự do biểu tình”,... theo chuẩn mực Mỹ - những thứ mà các thế lực thù địch vẫn dùng trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” để chống phá Việt Nam.
Cũng phải thấy rằng, sự phát triển các quan hệ hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với nhiều nước (không phân biệt chế độ chính trị) và nhiều tổ chức quốc tế đã tạo thuận lợi cho sự phát triển của Việt Nam những năm qua. Tuy nhiên, với tính chất hai mặt của chính quyền một số nước phương Tây, nên trong thực tế vẫn tồn tại những âm mưu, hoạt động lợi dụng sự phát triển các quan hệ hợp tác để thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống Việt Nam.
Nổi bật là sự hỗ trợ (với mức độ, hình thức khác nhau) của chính quyền một số nước đối với những cá nhân, tổ chức thù địch với Việt Nam3, để gia tăng các hoạt động chống phá. Họ vẫn lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do ngôn luận”, “tự do tôn giáo”,… theo chuẩn mực Mỹ để vu khống Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền; lấy đó làm động lực hỗ trợ về mặt chính trị, tinh thần cho các thế lực chống phá ở trong nước. Bất chấp sự phát triển các quan hệ hợp tác ở tầm “đối tác toàn diện” hay “đối tác chiến lược”, số người cực đoan tại Mỹ, Liên minh châu Âu (EU); các cơ quan, tổ chức, như: Bộ Ngoại giao, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ, Nghị viện châu Âu, Tổ chức theo dõi Nhân quyền (HRW),… vẫn tổ chức nhiều cuộc điều trần, hội thảo, họp báo, ra tuyên bố, ban hành các nghị quyết xuyên tạc, bóp méo tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Hằng năm, Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn tung ra các báo cáo nhân quyền toàn cầu, gần đây nhất là tháng 4-2016, trong đó tiếp tục xuyên tạc tình hình thực hiện quyền con người ở Việt Nam. Một số nghị sĩ trong Hạ viện Mỹ, như: A. Lâu-en-tan, L. San-chét, F. Vôn-phơ, T. X-mít, E. Roi-se,… vẫn thường xuyên đưa ra ý kiến, hay tạo điều kiện để người khác vu khống, xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam; hoặc thúc đẩy thông qua các Dự luật nhân quyền cho Việt Nam; vận động để Quốc hội Mỹ đưa Việt Nam trở lại “Danh sách các nước cần đặc biệt quan tâm về tự do tôn giáo (CPC)”. Ngày 08-12-2016, tại hội thảo nhân Ngày Quốc tế nhân quyền, do Ủy ban nhân quyền Tom Lantos (thuộc Hạ viện Mỹ) tổ chức, nghị sĩ A. Lâu-en-tan đã xuyên tạc mục đích Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo; xem đó là sự “gia tăng đàn áp tôn giáo”, “siết chặt quyền tự do tôn giáo của hàng triệu người dân”, rồi lặp lại luận điệu “nhà cầm quyền Việt Nam giam giữ hàng trăm tù nhân lương tâm, v.v.”(!). Tổ chức RSF có trụ sở chính ở Pháp, hằng năm cũng tự cho mình quyền phán xét tình hình tự do báo chí ở các nước. Trong bản Phúc trình năm 2016 (công bố ngày 20-4-2016), RSF tiếp tục xuyên tạc tình hình ở Việt Nam, khi cho rằng: “các blogger và nhà báo công dân, những nguồn thông tin độc lập tại Việt Nam, là đối tượng của một chủ trương đàn áp rất khắc nghiệt”(!). Đầu năm nay, Freedom House có trụ sở tại Mỹ cũng tiếp tục xếp Việt Nam vào danh sách “Các quốc gia không có tự do”(!) trong bản Báo cáo xếp hạng tự do toàn cầu năm 2017.
Được sự hậu thuẫn, móc nối của các thế lực thù địch ở nước ngoài, một số phần tử phản động, cơ hội, thoái hóa, biến chất ở trong nước cũng không ngừng các hoạt động chống phá. Chúng ra sức phủ nhận bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, chứng minh “sự du nhập chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào Việt Nam là sai lầm”; tách rời và đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác – Lê-nin; cố tình cho rằng “con đường Bác Hồ chọn không phải là chủ nghĩa xã hội”(!). Để xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, chúng phủ nhận những thành tựu của cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo; đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013, kêu gọi thực hiện “chế độ đa đảng”. Chúng đẩy mạnh hoạt động xuyên tạc lịch sử, nhằm đổi trắng thay đen, gây lẫn lộn giữa người có công và kẻ có tội, giữa người cách mạng và kẻ phản cách mạng. Lợi dụng những vấn đề nhạy cảm, như: chủ quyền trên Biển Đông, sự cố môi trường 04 tỉnh miền Trung do Công ty Formosa gây ra, những vấn đề liên quan đến sinh hoạt tôn giáo, dân tộc, dân chủ ở một vài địa phương, chúng kích động nhân dân biểu tình, gây rối, phá hoại đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, phá hoại sự ổn định chính trị của đất nước, tạo dựng các “nguyên cớ” để khi có thời cơ thì tiến hành bạo loạn, cướp chính quyền. Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, chúng ra sức hô hào “phi chính trị” hóa quân đội và công an; đòi các lực lượng này chỉ bảo vệ đất nước và nhân dân, chứ không bảo vệ Đảng (!).
Tất cả thực tiễn đó cho thấy: các thế lực thù địch không từ bỏ thực hiện “diễn biến hòa bình” với nước ta; và cuộc chiến, theo đó, vẫn tiếp diễn.
Giải pháp giành chiến thắng
Chống “diễn biến hòa bình” là cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc trong bối cảnh mới, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của “diễn biến hòa bình” là rất thâm độc, nhưng có đạt được hay không lại phụ thuộc vào chính chúng ta. V.I. Lê-nin từng căn dặn: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta”4. Vì thế, để giành thắng lợi trong cuộc chiến này, chúng ta cần xây dựng nội bộ mình thật sự vững mạnh. Theo đó, phải phát huy được sức mạnh của toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu và phương hướng cơ bản mà Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng đề ra. Trong khi phấn đấu thực hiện tốt 06 nhiệm vụ trọng tâm mà Nghị quyết Đại hội XII xác định, cần coi trọng tiến hành một số giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về bản chất, mục đích, các thủ đoạn của chiến lược “Diễn biến hòa bình”; về mối quan hệ chặt chẽ giữa “diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, để mọi người chủ động rèn luyện, nâng cao cảnh giác, không mơ hồ, mắc mưu những thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.
Hai là, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Đây là giải pháp có tính quyết định để vô hiệu hóa sự tác động của “diễn biến hòa bình”; bởi mục tiêu hướng tới của chiến lược này là thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, qua đó hòng dùng chính bàn tay chúng ta để xóa bỏ chế độ chính trị của chúng ta.
Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa chủ động ngăn chặn, phòng ngừa từ xa, với chủ động tiến công từ trong “trứng nước”, từ nơi xuất phát các âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; không để chúng nhen nhóm gây dựng “ngọn cờ”, hình thành các tổ chức đối lập. Để thực hiện được, phải dựa vào “tai, mắt” của nhân dân. Muốn vậy, cấp ủy và chính quyền các cấp phải hết sức chăm lo các vấn đề an sinh xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kịp thời giải tỏa những bức xúc của dân trong quan hệ với chính quyền. Trên cơ sở đó để xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, vô hiệu hóa mọi mưu đồ, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Tiến hành đồng bộ các giải pháp xây dựng và bảo vệ đất nước, kết hợp “xây” và “chống” trên mọi lĩnh vực; lấy xây dựng nội bộ trong sạch, vững mạnh là cốt lõi, phải là liệu pháp căn bản để giành chiến thắng trong cuộc chiến chống “diễn biến hòa bình”.

NGUYỄN NGỌC HỒI

Thứ Năm, 4 tháng 5, 2017

CHẶN ĐỨNG TÌNH TRẠNG THAO TÚNG CÔNG TÁC CÁN BỘ, LẠM DỤNG QUYỀN LỰC BỔ NHIỆM NGƯỜI NHÀ, NGƯỜI THÂN

            Mấy năm gần đây, tình trạng cán bộ lãnh đạo ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa phương thao túng trong công tác cán bộ, đề bạt, bổ nhiệm người nhà, người thân, người quen của mình vào những chức vụ quan trọng, vị trí công tác dễ “sinh lời”, dù được biện minh là “đúng quy trình” nhưng đã gây bức xúc trong dư luận xã hội.

            Đây là một trong những biểu hiện suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Nếu không ngăn chặn được tình trạng này sẽ tác động tiêu cực đến việc xây dựng bộ máy công quyền liêm chính, vì dân và làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ.
            Lợi dụng kẽ hở chính sách, bất chấp quy định của Đảng
            Trong số 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra hai biểu hiện suy thoái của cán bộ, đảng viên liên quan đến giải quyết mối quan hệ với người nhà, người thân. Đó là: “Tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí, sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích” (thuộc diện suy thoái về tư tưởng chính trị); và: “Thao túng trong công tác cán bộ; sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi” (thuộc diện suy thoái về đạo đức, lối sống).
            Nhận định trên đây là hoàn toàn có cơ sở. Bởi vì, chưa bao giờ những cụm từ như: “Cả nhà làm quan”, “cả họ làm quan”, “bổ nhiệm thần tốc”, “lên chức siêu nhanh”, “thăng chức như diều gặp gió”, “lại bổ nhiệm đúng quy trình”… liên tục xuất hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng như thời gian gần đây. Thậm chí, người dân tỏ ra rất “dị ứng” với cụm từ “đúng quy trình” vì hầu hết các trường hợp “con ông cháu cha” được bổ nhiệm đều được che giấu, biện minh bởi tấm bình phong “đúng quy định, đúng quy trình” nhưng ẩn chứa không ít điều khuất tất, tiêu cực.
            Chỉ trong năm 2016, theo thanh tra Bộ Nội vụ, sau khi kiểm tra, rà soát, xác minh các hồ sơ, tài liệu liên quan đến các trường hợp theo thông tin báo chí phản ảnh, cơ quan này đã phát hiện 58/60 cán bộ được bổ nhiệm có quan hệ ruột rà, họ hàng thân thích với cán bộ lãnh đạo. Việc bổ nhiệm “cả nhà làm quan” xảy ra nổi cộm ở 9 địa phương, đơn vị, bao gồm: Tỉnh Hà Giang; xã Hạ Sơn, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An; huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên-Huế; huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắc Lắc; tỉnh Bình Định; huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ; Cục Thuế tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu thuộc Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính; tỉnh Yên Bái; Trung tâm Pháp y thuộc Sở Y tế TP Đà Nẵng.
            Đấy là chưa kể lợi dụng quyền hạn của mình trước khi về hưu, một số cán bộ lãnh đạo đã bổ nhiệm hàng loạt người thân quen vào các vị trí cao hơn. Điển hình như nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ Trần Văn Truyền đã bổ nhiệm gần 60 cán bộ cấp vụ và tương đương trong cơ quan này cách đây 6 năm. Hay vào dịp tháng 3-2014, ông Nguyễn Thành Rum, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP Hồ Chí Minh, trong vòng hai tuần trước khi nghỉ công tác đã ký 20 quyết định bổ nhiệm cán bộ sai nguyên tắc.
            Gần đây nhất, dư luận bất bình trước việc “bổ nhiệm thần tốc” đối với một công chức ở Sở Xây dựng tỉnh Thanh Hóa có rất nhiều sai sót cả về quy trình, nguyên tắc và đây là một trong những vụ việc “nổi cộm” về tình trạng thao túng, lộng hành trong công tác cán bộ của một số cá nhân có chức, có quyền ở đây.
            Tại sao lại xảy ra tình trạng cha bổ nhiệm con, chồng bổ nhiệm vợ, chị bổ nhiệm em, bác bổ nhiệm cháu, lãnh đạo tùy tiện bổ nhiệm người thân quen, “cánh hẩu” với mình… khiến dư luận bức xức? Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng này, như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã chỉ ra, đó là: “Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tiên phong, gương mẫu; cơ chế kiểm soát quyền lực chậm được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở; đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ còn nể nang, cục bộ; một số cơ chế, chính sách trong đề bạt, bổ nhiệm cán bộ chưa công bằng”.
            Đáng nói hơn, hầu hết các trường hợp bổ nhiệm người nhà, người thân “siêu tốc” bị dư luận phanh phui đều liên quan đến những cán bộ chủ chốt ở cơ quan, đơn vị, địa phương. Những người này không chỉ lợi dụng các kẽ hở của chính sách pháp luật, lợi dụng quyền lực của mình để tác động, can thiệp, chi phối, thao túng công tác cán bộ, mà còn bất chấp các quy định của Đảng về việc giải quyết mối quan hệ với người nhà, người thân. Tại Quy định số 47-QĐ/TW ngày 1-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI “Về những điều đảng viên không được làm”, đã quy định cán bộ, đảng viên không được: “Can thiệp, tác động đến tổ chức, cá nhân để bản thân hoặc người khác được bổ nhiệm, đề cử, ứng cử, đi học… trái quy định”; và: “Tạo điều kiện hoặc có hành vi để bố, mẹ, vợ (chồng), con, anh, chị, em ruột lợi dụng chức vụ, vị trí công tác của mình nhằm trục lợi”. Tại Quy định số 101-QĐ/TW ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp” cũng nêu rõ: Cán bộ lãnh đạo chủ chốt “Không để cho người thân lợi dụng quyền hạn và ảnh hưởng của mình để trục lợi”.
            Cần có cơ chế đủ mạnh, xử lý nghiêm minh các trường hợp sai phạm
            Tình trạng bổ nhiệm người nhà, người thân tràn lan không chỉ là biểu hiện nổi cộm của “tư duy nhiệm kỳ”, “lợi ích nhóm”, mà còn xuất phát từ tư tưởng phong kiến “cha truyền con nối” vẫn tồn tại dai dẳng trong cán bộ, đảng viên. Hệ lụy gây ra là người tài, người tốt không có cơ hội được sử dụng, đề bạt tương xứng với trình độ, năng lực, cống hiến của họ; còn những người chưa đủ tiêu chí, chưa đạt tiêu chuẩn, ít có đóng góp cho cộng đồng lại được “đãi ngộ” quá sớm, trên mức bình thường. Nguy hại hơn, tình trạng này sẽ tạo thành những “ê kíp” lãnh đạo cục bộ, khép kín, dựng lên những “cánh hẩu” bao che, dung túng khuyết điểm cho nhau, từ đó làm méo mó các mối quan hệ trong nội bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể và tác động tiêu cực đến việc xây dựng bộ máy công quyền liêm chính, của dân, do dân, vì dân.   
            Để góp phần xây dựng bộ máy Đảng, chính quyền trong sạch và củng cố niềm tin của nhân dân vào chế độ, việc cấp bách hiện nay là sau khi dư luận phản ảnh, cơ quan chức năng vào cuộc và có kết luận rõ ràng những trường hợp bổ nhiệm người nhà, người thân sai nguyên tắc, trái quy định, hoặc “đúng quy trình” nhưng thiếu tính thuyết phục, thì phải kiên quyết thu hồi các quyết định bổ nhiệm, đề bạt đó. Điều nhân dân đòi hỏi, mong muốn là phải sớm xử lý nghiêm minh, thích đáng đối với những cán bộ lãnh đạo lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thao túng công tác cán bộ, bổ nhiệm người nhà, người thân tràn lan; đồng thời cũng phải có hình thức kỷ luật thích hợp đối với bộ phận tham mưu, thẩm định những quyết định bổ nhiệm cán bộ chưa đủ tiêu chí, chưa đạt tiêu chuẩn, năng lực hạn chế, uy tín thấp. Chỉ có siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong công tác tuyển dụng nhân sự, bổ nhiệm cán bộ mới có thể làm cho bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn và phục vụ nhân dân tốt hơn.
            Công tác cán bộ liên quan đến tập thể cấp ủy, tổ chức đảng các cấp. Cấp ủy mạnh, có sức chiến đấu cao, có tinh thần tự phê bình và phê bình nghiêm túc, thực chất và đặc biệt là có ý thức công tâm, vô tư, liêm khiết trong việc đánh giá, sử dụng, bổ nhiệm cán bộ sẽ góp phần ngăn ngừa được tình trạng người đứng đầu lạm dụng quyền hạn trong việc đề bạt người nhà, người thân. Mặt khác, phải sớm nghiên cứu, hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền trong việc bổ nhiệm cán bộ; đồng thời phải phân định rõ ràng thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể cấp ủy và mỗi cấp ủy viên trong các quy trình giới thiệu, thẩm định, lựa chọn, đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng cán bộ. Kiên quyết khắc phục tình trạng khi có khuyết điểm về công tác cán bộ thì đổ lỗi cho tập thể cấp ủy, dẫn tới tình trạng “hòa cả làng”, không ai chịu trách nhiệm cá nhân và “gánh” hậu quả pháp lý khi có sai phạm trong việc tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ.
            Từ khi đảm nhiệm vai trò người đứng đầu Chính phủ, trong vòng một năm qua, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nhiều lần chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương phải kiên quyết khắc phục tình trạng bổ nhiệm người nhà, người thân khiến dư luận bức xúc; đồng thời kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm và có hình thức xử lý kỷ luật cá nhân vi phạm pháp luật và có khuyết điểm trong công tác tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ, công chức. Sau khi nhấn mạnh rằng, yêu cầu công tác cán bộ phải đi tìm người tài chứ không phải tìm người nhà, Thủ tướng cũng mong muốn phải làm sao để con em nông dân, công nhân, người lao động có cơ hội được học tập, phấn đấu để trở thành lãnh đạo đất nước trong tương lai. Thông điệp đó của người đứng đầu Chính phủ không chỉ là lời thức tỉnh, cảnh báo nghiêm khắc đối với những ai đã, đang lạm dụng quyền hạn của mình để làm sai lệch, biến tướng, thao túng công tác cán bộ; mà còn thể hiện ý chí, cam kết chính trị của Đảng, Nhà nước ta trong việc nỗ lực hướng tới làm lành mạnh hóa công tác cán bộ, trong sạch hóa đội ngũ cán bộ, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có đủ phẩm chất, trình độ, năng lực, uy tín, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân.
                                                                                    THIỆN VĂN