Sở dĩ hình ảnh Hồ Chí Minh
sống mãi với non sông đất nước Việt Nam, thấm sâu vào đời sống tinh thần của
nhân dân tiến bộ trên thế giới, là vì những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp đã
hội tụ và biểu hiện trong suốt cuộc đời hiến dâng cho cách mạng của Người.
Thực
tiễn cho thấy, sức sống mãnh liệt của giá trị văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh đã
thấm vào tinh thần dân tộc, hun đúc nên giá trị văn hóa, đạo đức Việt Nam và
lan tỏa, hòa vào đời sống tinh thần của các dân tộc tiến bộ trên thế giới. Đó
cũng là một trong những lý do Hồ Chí Minh trở thành chiến sĩ tiên phong, năng
động, tích cực nhất trên thế giới, trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc
lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Ấy vậy mà một số người - những kẻ thâm thù chủ
nghĩa cộng sản, cố tình chống lại sự phát triển, tiến bộ của dân tộc Việt Nam
vẫn xuyên tạc, bôi xấu Hồ Chí Minh. Họ chống Đảng, chống lại sự nghiệp cách
mạng Việt Nam và chống cả những giá trị tốt đẹp mà Hồ Chí Minh đã cống hiến
trọn đời cho tiến bộ xã hội. Một trong những tiêu điểm chống đối rõ ràng nhất
của chúng là “bôi đen” Hồ Chí Minh về văn hóa, đạo đức. Hành động ám muội, xấu
xa, bỉ ổi của họ bấy lâu nay trên các diễn đàn, tán phát trên in-tơ-nét, chẳng
khác những con bọ húc đầu vào núi, bởi giá trị văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh có
sức sống bất diệt, là tài sản tinh thần vô giá không chỉ của dân tộc Việt Nam,
mà còn của nhân loại tiến bộ.
1. Ở Hồ Chí Minh, “nhà văn hóa” trùm
lên tất cả các danh vị khác. Thực tiễn cho thấy, có người được coi là anh
hùng dân tộc nhưng không phải là nhà văn hóa và ngược lại. Hồ Chí Minh có cả
“hai trong một”. Người đem văn hóa phổ vào mọi mặt của đời sống xã hội, đồng
thời thúc đẩy sự phát triển của nó: “Lấy văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Sự
nghiệp cách mạng Việt Nam đã minh chứng, văn hóa Hồ Chí Minh có trong chiến
lược, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta;
trong chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Đồng thời, văn hóa đó có cả
trong tiếng “gầm đại bác” tiêu diệt quân thù ở Điện Biên Phủ; điệu hò của các
chị, các anh dân công lội suối, băng rừng tiếp tế cho chiến trường; trong trận
tiến công chiến lược làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975; trong tiếng học i, tờ
của trẻ em khi cắp sách đến trường và cả trong cuộc chiến đấu khổng lồ chống
lại nghèo nàn và lạc hậu, v.v. Hồ Chí Minh đã mở ra một nền văn hóa mới cho dân
tộc Việt Nam, huy động các tiềm năng vào việc xây dựng chế độ mới, làm rạng rỡ
dân tộc Việt Nam. Nhân loại đã, đang và sẽ phấn đấu cho một tương lai tươi
sáng, trong đó có việc phát huy những giá trị tốt đẹp, đấu tranh chống lại
những gì phản động, lạc hậu - sự nghiệp đó chính là sự nghiệp của văn hóa, mà
lực lượng nòng cốt là những danh nhân văn hóa. Điều đó cắt nghĩa vì sao những
danh nhân văn hóa thế giới đều là những vĩ nhân “đi trước thời đại”, có tầm
nhìn xa trông rộng, nhãn quan của họ có thể nhìn xuyên thế kỷ, với tư chất một
nhà văn hóa kiệt xuất. Hồ Chí Minh là một người như vậy.
Từ vai trò định hướng sự phát
triển của văn hóa, Hồ Chí Minh đã khởi đầu xây dựng một nền văn hóa mới, theo
hướng: “dân tộc, khoa học và đại chúng”. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
và là sự thể hiện bản sắc, cốt cách dân tộc. Vận mệnh mỗi dân tộc luôn chịu sự
chi phối, quy định bởi việc lựa chọn hướng đi. Hồ Chí Minh đã chọn cho dân tộc
Việt Nam con đường: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - sự lựa chọn
hợp quy luật của văn hóa. Nhờ sự định hướng đúng đắn ấy mà cách mạng Việt Nam
đã huy động toàn bộ sức mạnh của dân tộc, cả quá khứ và hiện tại, kết hợp với
sức mạnh thời đại, tạo động lực tinh thần to lớn thúc đẩy đất nước ngày càng
phát triển. Các thế lực thù địch thường xuyên tạc rằng, Hồ Chí Minh đã đem văn
hóa ngoại lai - chủ nghĩa Mác – Lê-nin - du nhập vào Việt Nam, làm cho dân tộc
Việt Nam chọn sai con đường phát triển. Lập luận của họ thật cũ rích, khi hệ
thống xã hội chủ nghĩa không còn, họ lấy những khó khăn hiện tại của phong trào
cộng sản quốc tế để cho đó là sự thất bại của chủ nghĩa Mác – Lê-nin. Họ khoét
sâu vào những hạn chế, khuyết điểm trong tiến trình phát triển của cách mạng
Việt Nam để phủ nhận con đường mà Đảng, Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn.
Nhưng họ không biết hay cố tình không biết rằng: quy luật phát triển tất yếu
của các dân tộc trên thế giới là tiến lên chủ nghĩa xã hội, mặc dù con đường đó
đối với mỗi dân tộc không bằng phẳng, mà đầy khó khăn. Vì thế, con đường phát
triển của nhân dân Việt Nam chỉ duy nhất là: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội - con đường mà chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã chỉ ra. Đó là giá trị bất diệt của
văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh và cũng là thông điệp về sự phát triển, không thế
lực thù địch nào có thể xuyên tạc được.
Trong
sự phát triển của mỗi dân tộc, văn hóa (theo nghĩa rộng) điều chỉnh việc hoạch
định cương lĩnh, đường lối, chính sách của hệ thống chính trị. Tính đúng đắn
của cương lĩnh, đường lối, chính sách, chủ trương,… của hệ thống chính trị
thường tỉ lệ thuận với trình độ văn hóa của dân tộc. Hành vi biểu hiện của tổ
chức chính trị, của chính trị gia phản ánh trình độ văn hóa chính trị của tổ
chức chính trị, chính trị gia đó. Vì thế, trong lĩnh vực chính trị, nếu không
chú ý đến lĩnh vực văn hóa chính trị thì tư cách của người hoạt động chính trị
sẽ thiếu mặt văn hóa. Với con người Hồ Chí Minh, văn hóa - đạo đức - chính trị
luôn hòa quện chặt chẽ với nhau, cùng hướng tới tiến bộ xã hội, biểu hiện hành
vi của Người luôn thể hiện tư cách của nhà chính trị, nhà đạo đức và nhà văn
hóa kiệt xuất. Tại khóa họp lần thứ 24 của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
hóa của Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết khuyến nghị các quốc gia thành
viên kết hợp tổ chức Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Hồ Chí Minh - Anh hùng giải
phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam. Nghị quyết khẳng định: “Hồ
Chí Minh một biểu tượng xuất sắc về sự tự khẳng định dân tộc, đã cống hiến trọn
đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào
cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội”. Năm 1923, khi tiếp xúc với Hồ Chí Minh, nhà báo, nhà thơ Xô -
viết O-sip Man-dels-tam đã nhận xét: “Từ Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) đã tỏa ra
một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương
lai”.
Văn hóa là thước đo của sự phát
triển xã hội. Vì vậy, nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh đã huy động toàn bộ sức
mạnh văn hóa Việt Nam vào cuộc cách mạng, nhằm thực hiện: “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”. Người nhấn mạnh quan điểm văn hóa trong việc khẳng
định cốt cách, hay đặc tính (bản sắc) của dân tộc, của cộng đồng dân cư. Văn
hóa của dân tộc Việt Nam đã tạo dựng nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh của dân
tộc và làm rạng rỡ, vẻ vang cho dân tộc. Nó là thành quả hàng ngàn năm dựng
nước và giữ nước, đồng thời là kết quả của quá trình giao lưu văn hóa với các
dân tộc khác để luôn tự hoàn thiện mình. Mỗi dân tộc, quốc gia, cộng đồng dân
cư, trong quá trình hình thành, phát triển, đều tạo nên một cốt cách, bản sắc
văn hóa riêng biệt; nó như cái hộ chiếu, thẻ căn cước của con người. Nếu đánh
mất nó thì coi như đánh mất chính mình và cộng đồng dân cư, dân tộc, quốc gia
của mình, với tư cách là đơn vị văn hóa và do đó, bản sắc - cốt cách văn hóa là
yếu tố bảo đảm cho các quyền cơ bản: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của mỗi quốc gia, dân tộc. Việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa, cốt
cách của mình, không chấp nhận sức ép nô dịch của văn hóa ngoại lai là trách
nhiệm của dân tộc.
2. Đạo đức Hồ Chí Minh là sự thống
nhất giữa tư tưởng và hành động, giữa nói và làm, hướng tới tiến bộ xã hội.
“Đạo đức” mà Hồ Chí Minh đề cập là đạo đức mới - đạo đức cách mạng, khác hẳn
với đạo đức cũ: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời.
Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời”.
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng được biểu hiện ở các phẩm chất, như: lòng
nhân ái, tính nhân văn cao cả, trung với nước, hiếu với dân, “cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư”, tinh thần quốc tế trong sáng, v.v. Đây là lĩnh vực nhạy
cảm của văn hóa và là cái gốc của sự phát triển. Trong xã hội hiện đại, luật
pháp ngày càng đầy đủ hơn, chặt chẽ hơn, nhưng ngoài luật pháp thì đạo đức giữ
vai trò đặc biệt quan trọng trong việc điều tiết các quan hệ xã hội. Hồ Chí
Minh bao giờ cũng chú ý cả “đức trị” và “pháp trị”, xử lý mọi công việc vừa có
lý, vừa có tình. Với mỗi con người cụ thể, Hồ Chí Minh coi trọng cả đức và
tài, nhưng xét về thứ tự ưu tiên thì Người vẫn cho đức là cơ bản hơn cả. Đạo
đức đối với người cách mạng: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có
nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng
phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một
công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ
hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”. Có
thể nói, cuộc đời Hồ Chí Minh như “pho sách” lớn, biểu tượng sáng ngời về đạo
đức, đã lan toả, thẩm thấu, trở thành giá trị văn hóa vĩnh hằng trong các thế
hệ người Việt Nam và nhân dân tiến bộ toàn thế giới.
Tuy
vậy, có không ít người cho rằng, trong kinh tế thị trường, chỉ cần có tài thì
ở đâu cũng “sống” được, cũng đóng góp của cải cho xã hội được, cho nên làm ăn
kinh tế không nhất thiết cần đạo đức. Đó cũng là một cách nghĩ, nhưng chắc chắn
không phải là cách nghĩ của những người cộng sản, mà Hồ Chí Minh là tiêu biểu.
Bởi nó đã tách văn hóa, đạo đức ra khỏi kinh tế và như vậy, con đường làm ăn
kinh tế rất dễ đi vào ngõ cụt. Bởi lẽ, mọi sự phát triển đều dựa trên nền văn
hóa, đạo đức; nếu không có đạo đức làm cái căn bản thì làm ăn kinh tế chỉ có
chụp giật mà thôi. Thế giới càng phát triển nhanh thì người ta càng báo động
mạnh hơn về tính bền vững của sự phát triển, về sự mất đi cái tính văn hóa, về
sự phai nhạt dần cốt cách của từng dân tộc, về sự tha hóa của chính bản thân
con người. Từ lâu, các thế lực thù địch đã ra sức đặt điều, xuyên tạc,… về đạo
đức Hồ Chí Minh, nhất là về đời tư của Người. Chúng lấy đó làm phương pháp hành
động chống lại cách mạng Việt Nam. Lúc thì chúng dùng biện pháp, thủ thuật tinh
vi, nói xa nói gần, nói vòng vo; lúc thì nói trực diện, trắng trợn, bốp chát,
cay nghiệt, chửi rủa,… cốt là để lung lạc tinh thần nhiều người, đặc biệt là
đối với thế hệ trẻ. Nhưng thử hỏi và nhìn lại xem họ đã làm được những gì, lung
lạc được những ai, ngoài nhóm người nhẹ dạ cả tin, lập trường hay bị dao động?
Cả cuộc đời Hồ Chí Minh luôn phấn đấu vươn tới những giá trị thiện và đẹp, đó
là những giá trị cao đẹp nhất mà bất kỳ ai có lương tâm trong sáng đều muốn đạt
tới: hướng thiện, chân thành, nhân ái, đấu tranh vì sự tiến bộ, xả thân vì việc
nghĩa, lo cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội - giai cấp và
giải phóng con người. Hồ Chí Minh quan niệm rằng: “Làm cách mạng để cải tạo xã
hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một
nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức
có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Đúng dịp kỷ niệm 39 năm Ngày thành lập Đảng (năm
1969) - năm cuối cuộc đời, Người viết bài: “Nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân” để giáo dục cán bộ, đảng viên. Trước khi đi
vào cõi vĩnh hằng, Người không có điều gì phải hối hận, nhưng chỉ tiếc nuối!
Tưởng là tiếc nuối về vật chất, chưa được hưởng cái này cái nọ, nhưng cái mà
Người tiếc nuối là không được phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân lâu hơn nữa,
nhiều hơn nữa. Đó là sự tiếc nuối của một nhà văn hóa, đạo đức lỗi lạc; tiếc
nuối của một bậc đại nhân, đại trí, đại dũng. Trong Di chúc, Người viết: “Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo
đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật
trung thành của nhân dân. ĐOÀN VIÊN VÀ THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc
đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải
chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế
xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Có thể nói, ở đâu, lúc nào
Hồ Chí Minh cũng nói, viết và làm luôn thống nhất với nhau và đều liên quan đến
đạo đức. Đó là nếp sống văn hóa thường nhật của Hồ Chí Minh. Khi cho đạo đức
là cái gốc của cây, cái ngọn nguồn của sông, cái căn bản của người cách mạng,
Hồ Chí Minh trở thành một trong những người tiên phong trong cuộc cách mạng về
đạo đức; đồng thời là một chiến sĩ văn hóa trong hiện thực cuộc sống. Sự thật
này hoàn toàn bác bỏ những lời lẽ xuyên tạc ác độc của các thế lực thù địch đối
với cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh. Hơn thế, họ càng xuyên tạc, phủ nhận
thì văn hóa, đạo đức Hồ Chí Minh càng tỏa sáng.
Hồ
Chí Minh không phải là người chuyên viết sách lý luận về đạo đức, nhưng là người
Việt Nam đầu tiên đề cập đạo đức công dân trong chế độ mới, đã gắn trách nhiệm
với nghĩa vụ công dân. Khi đề cập đến cán bộ, đảng viên, Người đã tác động đúng
vào khâu “trọng điểm”, “trung tâm” của xã hội. Vì khi Đảng cầm quyền, cán bộ,
đảng viên là những người tiên phong trong các phong trào cách mạng, là cái gốc
của mọi công việc, là dây chuyền của bộ máy. Điều đó cắt nghĩa tại sao trong
“hàm lượng” Hồ Chí Minh nói, viết về đạo đức thì Người dành nhiều nhất cho cán
bộ, đảng viên. Trong đời sống xã hội, mỗi người luôn có vô vàn các mối quan hệ,
nó đan xen, chồng chéo, phong phú và vô cùng phức tạp. Song, tất cả được Hồ Chí
Minh quy vào ba mối quan hệ chủ yếu là: đối
với người, đối với việc và đối với mình; trong đó, tự mình đối với bản
thân mình là khó khăn nhất và Người là gương sáng tự mình làm chủ bản thân mình
về văn hóa, đạo đức, từ thuở hàn vi cả đến khi là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước.
Bản chất đạo đức Hồ Chí Minh chính là chủ nghĩa nhân đạo truyền thống kết hợp
và tiếp nối chủ nghĩa nhân đạo hiện đại tiến bộ, thể hiện đậm nét truyền thống
nhân ái, tính chiến đấu không khoan nhượng với cái xấu, cái ác, hướng con
người tới cái thiện, cái tốt, cái đúng. Đặc trưng đạo đức Hồ Chí Minh là sự
thống nhất giữa tư tưởng và hành động, giữa nói và làm, nhiều khi làm nhiều hơn
nói, “học” đi đôi với “hành”, lý luận gắn liền với thực tiễn, v.v. Đó là những
cặp chỉnh thể, nếu thiếu một vế sẽ là vô nghĩa.
Vẫn
còn đó những cán bộ, đảng viên không làm tròn nhiệm vụ, thậm chí có một bộ phận
không nhỏ đang suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; một số phạm
phải những tiêu cực, như: tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa rời quần chúng,…
nhưng không phải như các thế lực thù địch dựa vào đó, hoặc căn cứ vào cá nhân
cán bộ, đảng viên hư hỏng để rồi bôi xấu Đảng ta. Vì theo quan điểm của Hồ Chí
Minh thì Đảng cũng từ trong xã hội mà ra, trong Đảng cũng bị lây ngấm những cái
xấu từ bên ngoài vào, nhưng Người tin Đảng ta - Đảng của đạo đức và văn minh -
sẽ giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên làm tròn nhiệm vụ của mình.
GS, TS. MẠCH QUANG
THẮNG