Hơn hai thập kỷ nay, quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã
đạt được những bước tiến tích cực và thực chất. Kết quả đó do nhiều nguyên
nhân, song cơ bản nhất do hai bên tôn trọng thể chế chính trị của nhau. Đây là
cơ sở quan trọng để hai nước tiếp tục phát triển quan hệ trong thời gian tới.
Kể từ sau thời điểm bình thường hóa quan hệ và thiết lập
quan hệ ngoại giao (12-7-1995), Việt Nam và Hoa Kỳ đã không ngừng xây dựng,
phát triển quan hệ hợp tác và từ năm 2013, hai nước trở thành đối tác toàn
diện, trên tinh thần “gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng,
hướng tới tương lai”.
Tuy
nhiên, để đi đến kết quả đó, giữa hai nước đã phải trải qua một quá trình đầy
chông gai. Lịch sử từng biết đến những câu chuyện - như những cơ duyên - liên
quan đến hai nhà lãnh đạo nổi tiếng của hai dân tộc. Ngài Thomas Jefferson -
Tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ, tác giả của Tuyên
ngôn Độc lập năm 1776, người sáng lập ra đảng Dân chủ - Cộng hòa (tiền thân của hai Đảng Dân chủ và
Cộng hòa ở Mỹ hiện nay) - khi còn là một nhà canh nông, đã từng tìm hiểu về
nông nghiệp Việt Nam và đã cố gắng để đưa một giống lúa của Việt Nam về trồng ở
trang trại của mình. Đó là câu chuyện về Chủ tịch Hồ Chí Minh - người khai sinh
ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tác giả của Tuyên ngôn Độc lập năm 1945,
người sáng lập ra Đảng Cộng
sản Việt Nam - trong quá
trình tìm đường cứu nước, vào năm 1913 đã đến Boston - nơi khởi đầu của cuộc
cách mạng giành độc lập ở Hoa Kỳ, để tìm hiểu về nước Mỹ. Và sau này, khi đã là
Chủ tịch của nước Việt Nam mới, trong phần mở đầu bản “Tuyên ngôn Độc lập” đọc
trước quốc dân, đồng bào ngày 02-9-1945, Người đã trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập
của Hoa Kỳ: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền
tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”1. Trên cơ sở tiếp thu những tư
tưởng tiến bộ của nhân loại, trong đó có tư tưởng trong bản Tuyên ngôn Độc lập
của Hoa Kỳ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định con đường phát triển
của dân tộc cũng như chế độ
chính trị của đất nước, v.v.
Song, lịch sử cũng chứng kiến những sự kiện, đáng ra đã
làm cho hai dân tộc xích lại gần nhau, nhưng đã bị phía Hoa Kỳ bỏ lỡ. Hoa Kỳ và
Việt Nam từng là đồng minh trên mặt trận chống phát-xít. Ngay trong những ngày
Cách mạng Tháng Tám diễn ra, bộ đội Việt Minh đã cứu giúp một trung úy phi công
Mỹ bị quân Nhật bắn rơi và bàn giao cho phái bộ Hoa Kỳ ở Côn Minh (Trung Quốc).
Quân đội Mỹ cũng từng cử một đội đặc nhiệm của Cơ quan Tình báo Quân sự (OSS)
nhảy dù xuống Việt Bắc huấn luyện giúp Viêt Minh về chiến thuật, cách sử dụng
điện đài, chất nổ,… phục vụ cho cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp. Sau khi
Cách mạng Tháng Tám giành thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương thiết
lập quan hệ “hợp tác toàn diện” với Hoa Kỳ. Người từng gửi 14 lá thư cho phía
Hoa Kỳ, đặc biệt là cho Tổng thống Truman, đề nghị họ “ủng hộ nền độc lập còn
non trẻ của Việt Nam”, v.v. Tuy nhiên, thiện chí đó đã không được đáp ứng.
Nguyên nhân của nó, như lời Tổng thống Hoa Kỳ, Barack Obama khi sang thăm Việt
Nam (tháng 5-2016) khẳng định: “Lẽ ra, cuộc chiến nhằm lật đổ chế độ thực dân
đã khiến nhân dân hai nước nhanh chóng đoàn kết với nhau hơn. Tuy nhiên, thay
vì thế, nỗi lo sợ chủ nghĩa
cộng sản, chiến tranh Lạnh, và sự thù địch đã đẩy hai bên vào một cuộc chiến…”.
Chính từ việc không tôn trọng con
đường mà nhân dân Việt Nam lựa chọn, Hoa Kỳ đã đứng về phía Pháp, giúp đội
quân thực dân chống lại Việt Minh để tiêu diệt “phong trào giải phóng dân tộc
do những người cộng sản lãnh đạo” và “ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản bành trướng
ở Đông Dương”, v.v. Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã làm hết sức
mình để đoàn kết lực lượng và kiến tạo hòa bình, song vẫn phải đương đầu với
Quân đội Pháp được Mỹ khuyến khích và viện trợ cả về tiền bạc, vũ khí và con
người2. Cho đến tháng 5-1948, khi Hoa Kỳ đã trực tiếp viện trợ cho
quân viễn chinh Pháp, Người vẫn tin tưởng ở nhân dân Mỹ: “Dân tộc Mỹ đã từng
chiến đấu anh dũng để được độc lập và đã có độ lượng công nhận nền độc lập của
Phi Luật Tân, tất nhiên phải đồng tình với nước Việt Nam tranh đấu giành độc
lập”3. Sau này, khi chính quyền Mỹ đã trực tiếp đưa quân vào xâm
lược miền Nam, quyết tâm đưa Việt Nam “trở lại thời kỳ đồ đá”, Chủ tịch Hồ Chí
Minh vẫn tin về một giải pháp hòa bình giữa hai nước. Trong thư trả lời Tổng
thống Mỹ Richard Nixon, ngày 23-8-1969, Người nhấn mạnh: “Với thiện chí của
phía Ngài và phía chúng tôi, chúng ta có thể đi tới những cố gắng chung để tìm
một giải pháp đúng đắn cho vấn đề Việt Nam”4, v.v. Sau khi hòa bình
lập lại, đất nước thống nhất, nhân dân Việt Nam quyết tâm thực hiện mong muốn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: xây dựng lại đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp
hơn”. Nhưng, do không chịu thừa nhận chế
độ xã hội chủ nghĩa của
Việt Nam và với thái độ thù địch, Mỹ và phương Tây thực hiện chính sách “bao
vây, cấm vận”, hòng làm cho Việt Nam bị cô lập và sụp đổ! Thế nhưng, với đường
lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã
đoàn kết, ra sức phấn đấu đưa đất nước vượt qua mọi thử thách; đồng thời, tiến
hành công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa giành được
nhiều thắng lợi.
Vượt qua bao vây, cấm vận, quan hệ bang giao của Việt Nam
ngày càng rộng mở với nhiều quốc gia, trong đó có cả Hoa Kỳ. Trên cơ sở chính
sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế,
Việt Nam khẳng định chính sách nhất quán coi trọng quan hệ với Hoa Kỳ; đưa quan
hệ giữa hai bên ngày càng phát triển, đóng góp quan trọng vào hòa bình, ổn
định, hợp tác và phát triển ở châu Á - Thái Bình Dương. Hai mươi hai năm qua,
với tinh thần tôn trọng con
đường của nhau, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can
thiệp vào công việc nội bộ, hợp tác cùng có lợi, giữa hai nước đã có những
đột phá về ngoại giao, với nhiều cuộc thăm viếng, kể cả ở cấp cao nhất. Các
Tổng thống Mỹ: Bill Clinton, George Bush, Barack Obama tới thăm Việt Nam. Ở
chiều ngược lại, các Chủ tịch nước của Việt Nam: Lê Đức Anh, Trần Đức Lương,
Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang cũng đã tới thăm Hoa Kỳ. Các mối quan
hệ, hợp tác song phương, nhất là về khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y
tế, môi trường, an ninh - quốc phòng đạt được những bước tiến mạnh mẽ. Đặc
biệt, quan hệ kinh tế, thương mại có sự phát triển vượt bậc; từ con số
không, Hoa Kỳ trở thành đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam, là một trong
những nhà đầu tư lớn nhất, là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Giữa
hai nước cũng có sự phối hợp hiệu quả trong khắc phục, xử lý chất độc hóa học
tồn lưu sau chiến tranh, nhất là việc xử lý ô nhiễm đi-ô-xin tại các sân bay:
Đà Nẵng, Phù Cát, Biên Hòa, v.v.
Tuy nhiên, vẫn còn đó những vấn đề tồn tại cần giải
quyết, nhất là những cáo buộc đối với Việt Nam xung quanh vấn đề: dân tộc, tôn
giáo, dân chủ, nhân quyền, của các tổ chức và cá nhân từ phía Hoa Kỳ. Trong các
bản “Phúc trình thường niên về tình hình tự do tôn giáo quốc tế” do Bộ Ngoại
giao Hoa Kỳ công bố, phần nói về Việt Nam thường có những nhận định sai lệch so
với thực tiễn diễn ra trên đất nước Việt Nam. Phía Việt Nam đã đấu tranh bác
bỏ, với những lý lẽ và bằng chứng xác đáng, nhưng tình hình vẫn chưa được cải
thiện. Đặc biệt, một số tổ chức có trụ sở đặt tại Hoa Kỳ, thường có nhiều hoạt
động chống phá chế độ chính trị của Việt Nam, nhưng phía Hoa Kỳ chưa thể hiện
hết vai trò, trách nhiệm của mình. Chẳng hạn “Việt Tân”, là một tổ chức khủng
bố, đặt trụ sở tại SanJose (California), đã gây ra nhiều nợ máu đối với nhân
dân Việt Nam và cả kiều bào Việt Nam ở nước ngoài, nhưng vẫn được tự do hoạt
động. Gần đây, chúng tăng cường các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và chế
độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, như: mở các khóa đào tạo trực tuyến để huấn
luyện cách chế tạo bom xăng, sử dụng chất nổ,… phục vụ cho các hoạt động ám
sát, khủng bố. Trong thời gian xảy ra sự cố môi trường biển miền Trung, Việt
Tân đã tập trung kích động biểu tình, gây rối, đập phá máy móc,… mưu toan tạo
ra một cuộc “cách mạng cá”, nhưng đã thất bại. Bộ Công an Việt Nam đã có đầy đủ
bằng chứng khẳng định: Việt Tân là một tổ chức khủng bố. Nhưng phía Hoa Kỳ, dựa
trên những thông tin sai lệch, coi nó “là một tổ chức mang tính hòa bình, ủng
hộ cải cách dân chủ”!?
Không chỉ thế, đối với cái gọi là “Tổ chức Giám sát nhân
quyền” (HRW) - một tổ chức có trụ sở tại thành phố New York được Chính phủ Hoa
Kỳ tài trợ một phần về tài chính - thường có nhiều tuyên bố sai trái về Việt
Nam, nhưng phía Hoa Kỳ vẫn bao che, dung dưỡng. Tự coi mình là tổ chức Giám sát
về nhân quyền quốc tế, nhưng HRW không hề thể hiện vai trò đó ở Việt Nam. Họ
không đếm xỉa gì đến tình cảnh hàng triệu người Việt bị phơi nhiễm chất độc da
cam/đi-ô-xin, hay tình hình bom, mìn, vật liệu nổ do hậu quả của chiến tranh để
lại. Họ cũng “không biết” đến những thành tựu của Việt Nam trong nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân và những kết quả đạt được trong xóa đói
giảm nghèo, trong thực hiện “Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ” của Liên hợp
quốc. Họ thường xuyên đưa ra những tuyên bố hoàn toàn không đúng với thực tế
diễn ra ở Việt Nam, như cho rằng: “Việt Nam đàn áp một cách có hệ thống những
người bất đồng chính kiến”; thậm chí còn tổ chức trao “giải thưởng nhân quyền”
cho một số người luôn tìm cách phá hoại công cuộc đổi mới đất nước, mà họ gọi
là “những người tích cực đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền Việt Nam”, v.v.
Giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, mặc dù còn có những khác biệt,
nhưng quan hệ giữa hai nước đã trở thành đối
tác toàn diện. Phía Hoa Kỳ, lần đầu tiên đã mời Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt
Nam Nguyễn Phú Trọng sang thăm và đón tiếp với nghi thức đón tiếp nguyên thủ
quốc gia. Điều đó chứng tỏ, Hoa Kỳ đã tôn trọng quyền tự quyết của dân tộc Việt
Nam. Thực vậy, trong Văn kiện “Tầm nhìn chung” được ký kết giữa Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Barak Obama vào tháng 7-2015 tại Washington, cả
hai bên đều khẳng định nguyên tắc “Tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau”. Thiết nghĩ, đây vừa là nền tảng của mối
quan hệ giữa hai nước, vừa là tiêu chí để hai bên giải quyết mọi tồn tại, bất
cập, làm cho mối quan hệ giữa hai bên không ngừng phát triển, vì hòa bình,
thịnh vượng và hạnh phúc của nhân dân hai nước. Đồng thời, còn là cơ sở để bác
bỏ mọi sự hiềm kích của các thế lực thù địch, chỉ nhìn vào sự khác biệt và
khoét sâu nó, hòng cản trở quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Nhưng họ đã, đang và chắc
chắn sẽ bị thất bại nếu vẫn tiếp tục những âm mưu và hành động “cố đấm ăn xôi”!.
VINH HIỂN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét