Như
một thông lệ, cứ vào dịp kỷ niệm Ngày chiến thắng 30-4, bọn phản động lưu vong
và các thế lực thù địch lại nhao nhao tung ra các luận điệu xuyên tạc lịch sử,
phủ nhận thành quả của công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta.
Trong đó, phủ nhận đường lối cách mạng độc lập, tự chủ của Đảng Cộng sản Việt
Nam là một trọng tâm mà họ hướng vào. Đây là một luận điệu hiểm độc, cần kiên
quyết đấu tranh bác bỏ.
Họ rêu rao rằng: đường lối kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ, thực chất là chiêu bài dựa dẫm bên ngoài của Đảng Cộng sản, nhằm đưa
Việt Nam rời khỏi quỹ đạo của
nước này, rồi chui vào gông cùm của nước khác, chứ không phải vì độc lập, tư do của dân tộc. Đường lối đó do nước
ngoài áp đặt, không có gì là “độc lập, tự chủ”, không xuất phát từ nguyện vọng
của nhân dân, như Đảng Cộng sản vẫn tuyên truyền, v.v.
Thật vớ vẩn! Đúng là sự xuyên tạc trắng trợn, sự bịa đặt
trơ tráo, xúc phạm thô bạo đối với cuộc đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ, nhưng
vô cùng oanh liệt và rất đỗi tự hào của dân tộc ta! Các điều vớ vẩn đó tưởng lạ
mà không lạ. Đặc biệt đối với những ai hiểu rõ bản chất, nhân cách, tâm địa của
những con người này đều không khó nhận thấy rất rõ rằng, đằng sau sự bịa đặt đó
là một mưu toan chính trị vô cùng hiểm độc hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Từ xuyên tạc họ
kích động hạ bệ Đảng Cộng sản Việt Nam, rằng: trước đây Đảng Cộng sản đã không
đại diện cho ý chí và nguyện vọng của dân tộc, ngày nay càng không xứng đáng
với vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Muốn xây dựng Việt Nam giàu mạnh, thực
sự “độc lập, tư do”, nhân dân ta cần đi con đường khác, “con đường không Cộng
sản”!? v.v.
Tung ra những luận điệu đó, họ đã cố tình phớt lờ bối
cảnh đất nước cũng như khát vọng của dân tộc ta những năm đầu thế kỷ XX. Ai
cũng biết, dưới chế độ thực dân, phong kiến, đất nước bị xâm lăng, người dân
sống vô cùng cơ cực, lầm than dưới sự áp bức, nô dịch của kẻ thù; bởi vậy, mong
muốn lớn nhất của nhân dân ta là đất nước độc lập, nhân dân tự do, được làm chủ
vận mệnh của mình. Song, để có điều đó chúng ta không thể ngồi yên chờ đợi hoặc
trông mong sự “giúp đỡ” của người khác. Hơn ai hết, nhân dân ta hiểu rõ “đem
sức ta mà giải phóng cho ta”, bằng con đường riêng của mình. Đó là đường lối
kháng chiến độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của Đảng ta, sự lựa chọn duy nhất
đúng của nhân dân ta không chỉ trong thời điểm, tình thế đất nước như ngàn cân
treo sợi tóc, trong suốt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, mà còn xuyên suốt
sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ
nước đã chứng minh: tinh thần độc lập, tự chủ là nhân tố cốt lõi đưa dân tộc
Việt Nam vượt qua mọi thử thách cam go để chiến thắng các thế lực xâm lược, phá
tan mọi mưu đồ đồng hóa của ngoại bang,… bảo đảm cho sự trường tồn và phát
triển của đất nước.
Tiếp thu truyền thống của dân tộc, nhận rõ tình cảnh của
người dân mất nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước với
khát vọng cháy bỏng: Tự do
cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi. Trong Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng do Người soạn thảo đã xác định mục tiêu, phương hướng chiến lược
của cách mạng, trong đó nhấn mạnh: phải đánh đổ thực dân, đế quốc, “Làm cho
nước Nam được hoàn toàn độc lập”1. Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương
lần thứ 8 (tháng 5-1941), thống nhất với tư tưởng đó, Đảng ta chỉ rõ: trong lúc
này, “nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những
toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ
phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”2. Với mục tiêu
bất di bất dịch là độc lập,
tự do của dân tộc và đường
lối dựa vào sức mạnh của toàn
dân, Đảng đã thức tỉnh, động viên, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu
nước, không phân biệt đảng phái, giai cấp, tín ngưỡng, nghề nghiệp,… tạo được
sức mạnh to lớn để đánh Pháp, đuổi Nhật, làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám lịch
sử; khai sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong kháng chiến chống Pháp, trước một đội quân xâm lược
có vũ khí, trang bị mạnh hơn nhiều lần, lại được đế quốc Mỹ tiếp sức, Đảng ta
đã lựa chọn con đường dựa vào
sức mình là chính; tổ
chức, động viên nhân dân nêu cao quyết tâm “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định
không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”3 để giữ vững nền độc lập non trẻ. Đồng
thời, phát động toàn dân
kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến; tranh thủ sự
giúp đỡ của các nước anh em và quốc tế; giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc
và dân chủ, giữa độc lập dân tộc và người cày có ruộng; thực hiện giảm tô, giảm
tức, chia lại đất cho nông dân; kêu gọi nhân sỹ, trí thức ở nước ngoài về tham
gia kháng chiến, v.v. Nhờ đó, cách mạng đã giải quyết đúng lợi ích của các bộ
phận; nâng cao đời sống của nhân dân, nhất là giai cấp nông dân; thu hút nhiều
trí thức trình độ cao về nước,… tạo nên sức mạnh to lớn cả về vật chất và tinh
thần cho tiền tuyến đánh thắng kẻ thù. Với đường lối đúng đắn của Đảng, tài
thao lược của bộ thống soái tối cao, tinh thần dũng cảm của Quân đội và nhân
dân, chúng ta đã làm nên những chiến công vang dội: Việt Bắc (1947); Biên Giới
(1950),… đặc biệt là chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), buộc kẻ thù phải ngồi
vào bàn đàm phán và ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954). Theo Hiệp định, sau hai năm
sẽ tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Nhưng với mưu đồ đen tối, đế quốc
Mỹ đã nhảy vào miền Nam, tổ chức ra chính quyền bù nhìn, viện trợ kinh tế, quân
sự, biến miền Nam thành thuộc địa thực dân kiểu mới, v.v.
Cả nước ta bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
trong bối cảnh hết sức khó khăn. Bởi, Mỹ là một cường quốc có tiềm lực kinh tế
và quân sự hùng hậu, lại có nhiều tham vọng ở khu vực Đông Nam Á. Trong lúc đó,
tình hình quốc tế hết sức phức tạp; xu thế tạm thời hòa hoãn giữa hai “phe”
đang nổi lên và người ta đang nói nhiều về “trường kỳ mai phục”, “thi đua hòa
bình”, v.v. Việt Nam không phải là nước duy nhất bị chia cắt thành hai miền.
Song, kiên định mục tiêu, đường lối đã đề ra, Đảng ta khẳng định con đường cách
mạng Việt Nam là đấu tranh vũ
trang, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Để đánh thắng đế quốc Mỹ
xâm lược, cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc và Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam; phát huy
cao độ sức mạnh của tiền tuyến lớn và hậu phương lớn, sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, v.v.
Đánh giá đúng tình hình cách mạng miền Nam, Đảng ta xác
định phải tiến hành đường lối chiến
tranh nhân dân; đồng thời, vạch ra phương thức, phương châm, phương pháp
cách mạng, nghệ thuật tập hợp quần chúng đúng đắn, với tinh thần: “thóc không
thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”,
“xe chưa qua nhà không tiếc”, v.v. Thực tiễn cách mạng ở miền Nam từ phong trào
Đồng Khởi đến đánh thắng các chiến lược: “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh
cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” cũng như Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân
năm 1975, đã chứng minh tính đúng đắn của phương
thức kết hợp đấu tranh chính
trị với đấu tranh vũ trang; phương
châm “hai chân, ba mũi, ba
vùng” và sự kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự, binh
vận và đấu tranh ngoại giao. Cùng với tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn
diện, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó, chúng ta tập trung sức mạnh
của các đơn vị chủ lực với sự nổi dậy của nhân dân vùng tạm chiếm để đánh bại
các cuộc tiến công, phản công của địch.
Sát cánh cùng đồng bào miền Nam thành đồng, bất khuất,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đã vượt qua nhiều hy sinh,
gian khổ; chung sức, chung lòng vừa chiến đấu vừa xây dựng chủ nghĩa xã
hội với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, “mỗi
người làm việc bằng hai vì đồng bào miền Nam ruột thịt”, v.v. Khi đế quốc
Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, hưởng ứng lời kêu gọi: “Không có gì
quý hơn độc lập, tự do”4 của
Bác Hồ, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu (bắn rơi 3.969 máy bay, trong đó
có 61 máy bay B.52; bắn chìm 168 tàu chiến; bắt sống nhiều phi công), làm nên
chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”. Chiến thắng đó đã góp phần đánh bại
hoàn toàn ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ký kết Hiệp định Pa-ri
và rút quân về nước, tạo điều kiện để chúng ta chuẩn bị mọi mặt cho cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, đất nước độc lập, thống
nhất, mở ra một thời kỳ mới để nhân dân ta xây dựng đất nước giàu mạnh, nhân
dân ấm no, hạnh phúc. Đó là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, trong đó nhân
tố quyết định là đường lối độc lập, tự chủ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại của Đảng ta.
Thế nhưng, các thế lực thù địch với bản chất hiếu chiến
xâm lược không từ bỏ dã tâm chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng tuyên truyền,
xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; bao vây, cấm vận về kinh
tế, cô lập về ngoại giao,... hòng làm cho đất nước ta kiệt quệ, đi đến sụp đổ.
Nhưng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Nhân dân ta luôn kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đoàn kết, ra sức khắc phục khó khăn, tiến
hành công cuộc đổi mới ngày càng giành những thắng lợi to lớn. Thành tựu nổi
bật và cơ bản nhất là chúng ta đã giữ vững được độc lập, chủ quyền, thống nhất,
toàn vẹn lãnh thổ; từng bước phá thế bao vây cô lập của kẻ thù, ngăn chặn và đẩy
lùi mọi mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch, tạo môi trường hòa bình, ổn
định để xây dựng đất nước, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân. Trước những diễn biến hết sức phức tạp trên Biển Đông, toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân ta đã kiên quyết và kiên trì đấu tranh trên cơ sở tuân
thủ luật pháp quốc tế để giữ vững chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc,
v.v. Nhờ đó, thế và lực, sức mạnh tổng hợp, uy tín quốc tế của Việt Nam không
ngừng được nâng cao; lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ càng được
tăng cường.
Rõ ràng, những luận điệu xuyên tạc mục tiêu độc lập, tự
do và đường lối độc lập, tự chủ của Đảng trong công cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc trước đây cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay là vô
căn cứ và hết sức lố bịch. Trái với luận điệu kệch cỡm của các “nhà dân chủ”
cho rằng: đường lối của Đảng do nước ngoài áp đặt. Thực tiễn 87 năm qua chứng
minh: đường lối của Đảng ta bắt nguồn từ truyền thống văn hóa của dân tộc, xuất
phát từ nhu cầu lịch sử của đất nước, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, nên
tập hợp được tất cả sức mạnh của đồng bào trong nước, kiều bào nước ngoài, cũng
như sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Thắng lợi của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã đưa đất nước thoát khỏi ách xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ, trở thành một quốc gia độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,… ngày càng
có vai trò và uy tín cao trên trường quốc tế. Thắng lợi đó, cùng với những
thành tựu của 30 năm đổi mới vừa qua, càng làm cho nhân dân ta tin tưởng và
quyết tâm theo Đảng, ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là minh chứng thuyết phục nhất, sự
bác bỏ hùng hồn nhất đối với các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế
lực thù địch.
VINH HIỂN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét