Thứ Năm, 27 tháng 4, 2017

ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ - ĐƯỜNG LỐI XUYÊN SUỐT CÁCH MẠNG VIỆT NAM

            Như một thông lệ, cứ vào dịp kỷ niệm Ngày chiến thắng 30-4, bọn phản động lưu vong và các thế lực thù địch lại nhao nhao tung ra các luận điệu xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành quả của công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Trong đó, phủ nhận đường lối cách mạng độc lập, tự chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam là một trọng tâm mà họ hướng vào. Đây là một luận điệu hiểm độc, cần kiên quyết đấu tranh bác bỏ.
            Họ rêu rao rằng: đường lối kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, thực chất là chiêu bài dựa dẫm bên ngoài của Đảng Cộng sản, nhằm đưa Việt Nam rời khỏi quỹ đạo của nước này, rồi chui vào gông cùm của nước khác, chứ không phải vì độc lập, tư do của dân tộc. Đường lối đó do nước ngoài áp đặt, không có gì là “độc lập, tự chủ”, không xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân, như Đảng Cộng sản vẫn tuyên truyền, v.v.
            Thật vớ vẩn! Đúng là sự xuyên tạc trắng trợn, sự bịa đặt trơ tráo, xúc phạm thô bạo đối với cuộc đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ, nhưng vô cùng oanh liệt và rất đỗi tự hào của dân tộc ta! Các điều vớ vẩn đó tưởng lạ mà không lạ. Đặc biệt đối với những ai hiểu rõ bản chất, nhân cách, tâm địa của những con người này đều không khó nhận thấy rất rõ rằng, đằng sau sự bịa đặt đó là một mưu toan chính trị vô cùng hiểm độc hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Từ xuyên tạc họ kích động hạ bệ Đảng Cộng sản Việt Nam, rằng: trước đây Đảng Cộng sản đã không đại diện cho ý chí và nguyện vọng của dân tộc, ngày nay càng không xứng đáng với vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Muốn xây dựng Việt Nam giàu mạnh, thực sự “độc lập, tư do”, nhân dân ta cần đi con đường khác, “con đường không Cộng sản”!? v.v.
            Tung ra những luận điệu đó, họ đã cố tình phớt lờ bối cảnh đất nước cũng như khát vọng của dân tộc ta những năm đầu thế kỷ XX. Ai cũng biết, dưới chế độ thực dân, phong kiến, đất nước bị xâm lăng, người dân sống vô cùng cơ cực, lầm than dưới sự áp bức, nô dịch của kẻ thù; bởi vậy, mong muốn lớn nhất của nhân dân ta là đất nước độc lập, nhân dân tự do, được làm chủ vận mệnh của mình. Song, để có điều đó chúng ta không thể ngồi yên chờ đợi hoặc trông mong sự “giúp đỡ” của người khác. Hơn ai hết, nhân dân ta hiểu rõ “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, bằng con đường riêng của mình. Đó là đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của Đảng ta, sự lựa chọn duy nhất đúng của nhân dân ta không chỉ trong thời điểm, tình thế đất nước như ngàn cân treo sợi tóc, trong suốt cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, mà còn xuyên suốt sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã chứng minh: tinh thần độc lập, tự chủ là nhân tố cốt lõi đưa dân tộc Việt Nam vượt qua mọi thử thách cam go để chiến thắng các thế lực xâm lược, phá tan mọi mưu đồ đồng hóa của ngoại bang,… bảo đảm cho sự trường tồn và phát triển của đất nước.
            Tiếp thu truyền thống của dân tộc, nhận rõ tình cảnh của người dân mất nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước với khát vọng cháy bỏng: Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Người soạn thảo đã xác định mục tiêu, phương hướng chiến lược của cách mạng, trong đó nhấn mạnh: phải đánh đổ thực dân, đế quốc, “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”1. Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5-1941), thống nhất với tư tưởng đó, Đảng ta chỉ rõ: trong lúc này, “nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”2. Với mục tiêu bất di bất dịch là độc lập, tự do của dân tộc và đường lối dựa vào sức mạnh của toàn dân, Đảng đã thức tỉnh, động viên, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước, không phân biệt đảng phái, giai cấp, tín ngưỡng, nghề nghiệp,… tạo được sức mạnh to lớn để đánh Pháp, đuổi Nhật, làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám lịch sử; khai sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
            Trong kháng chiến chống Pháp, trước một đội quân xâm lược có vũ khí, trang bị mạnh hơn nhiều lần, lại được đế quốc Mỹ tiếp sức, Đảng ta đã lựa chọn con đường dựa vào sức mình là chính; tổ chức, động viên nhân dân nêu cao quyết tâm “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”3 để giữ vững nền độc lập non trẻ. Đồng thời, phát động toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến; tranh thủ sự giúp đỡ của các nước anh em và quốc tế; giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và dân chủ, giữa độc lập dân tộc và người cày có ruộng; thực hiện giảm tô, giảm tức, chia lại đất cho nông dân; kêu gọi nhân sỹ, trí thức ở nước ngoài về tham gia kháng chiến, v.v. Nhờ đó, cách mạng đã giải quyết đúng lợi ích của các bộ phận; nâng cao đời sống của nhân dân, nhất là giai cấp nông dân; thu hút nhiều trí thức trình độ cao về nước,… tạo nên sức mạnh to lớn cả về vật chất và tinh thần cho tiền tuyến đánh thắng kẻ thù. Với đường lối đúng đắn của Đảng, tài thao lược của bộ thống soái tối cao, tinh thần dũng cảm của Quân đội và nhân dân, chúng ta đã làm nên những chiến công vang dội: Việt Bắc (1947); Biên Giới (1950),… đặc biệt là chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), buộc kẻ thù phải ngồi vào bàn đàm phán và ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954). Theo Hiệp định, sau hai năm sẽ tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Nhưng với mưu đồ đen tối, đế quốc Mỹ đã nhảy vào miền Nam, tổ chức ra chính quyền bù nhìn, viện trợ kinh tế, quân sự, biến miền Nam thành thuộc địa thực dân kiểu mới, v.v.
            Cả nước ta bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong bối cảnh hết sức khó khăn. Bởi, Mỹ là một cường quốc có tiềm lực kinh tế và quân sự hùng hậu, lại có nhiều tham vọng ở khu vực Đông Nam Á. Trong lúc đó, tình hình quốc tế hết sức phức tạp; xu thế tạm thời hòa hoãn giữa hai “phe” đang nổi lên và người ta đang nói nhiều về “trường kỳ mai phục”, “thi đua hòa bình”, v.v. Việt Nam không phải là nước duy nhất bị chia cắt thành hai miền. Song, kiên định mục tiêu, đường lối đã đề ra, Đảng ta khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là đấu tranh vũ trang, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Để đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, cả nước thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam; phát huy cao độ sức mạnh của tiền tuyến lớn và hậu phương lớn, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, v.v.
            Đánh giá đúng tình hình cách mạng miền Nam, Đảng ta xác định phải tiến hành đường lối chiến tranh nhân dân; đồng thời, vạch ra phương thức, phương châm, phương pháp cách mạng, nghệ thuật tập hợp quần chúng đúng đắn, với tinh thần: “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “xe chưa qua nhà không tiếc”, v.v. Thực tiễn cách mạng ở miền Nam từ phong trào Đồng Khởi đến đánh thắng các chiến lược: “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh” cũng như Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đã chứng minh tính đúng đắn của phương thức kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang; phương châm “hai chân, ba mũi, ba vùng” và sự kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự, binh vận và đấu tranh ngoại giao. Cùng với tiến hành chiến tranh toàn dân, toàn diện, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó, chúng ta tập trung sức mạnh của các đơn vị chủ lực với sự nổi dậy của nhân dân vùng tạm chiếm để đánh bại các cuộc tiến công, phản công của địch.
            Sát cánh cùng đồng bào miền Nam thành đồng, bất khuất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đã vượt qua nhiều hy sinh, gian khổ; chung sức, chung lòng vừa chiến đấu vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội với tinh thần “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, “mỗi người làm việc bằng hai vì đồng bào miền Nam ruột thịt”, v.v. Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc, hưởng ứng lời kêu gọi: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”4 của Bác Hồ, quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu (bắn rơi 3.969 máy bay, trong đó có 61 máy bay B.52; bắn chìm 168 tàu chiến; bắt sống nhiều phi công), làm nên chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không”. Chiến thắng đó đã góp phần đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải ký kết Hiệp định Pa-ri và rút quân về nước, tạo điều kiện để chúng ta chuẩn bị mọi mặt cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, đất nước độc lập, thống nhất, mở ra một thời kỳ mới để nhân dân ta xây dựng đất nước giàu mạnh, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Đó là kết quả tổng hợp của nhiều nhân tố, trong đó nhân tố quyết định là đường lối độc lập, tự chủ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của Đảng ta.
            Thế nhưng, các thế lực thù địch với bản chất hiếu chiến xâm lược không từ bỏ dã tâm chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; bao vây, cấm vận về kinh tế, cô lập về ngoại giao,... hòng làm cho đất nước ta kiệt quệ, đi đến sụp đổ. Nhưng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Nhân dân ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đoàn kết, ra sức khắc phục khó khăn, tiến hành công cuộc đổi mới ngày càng giành những thắng lợi to lớn. Thành tựu nổi bật và cơ bản nhất là chúng ta đã giữ vững được độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; từng bước phá thế bao vây cô lập của kẻ thù, ngăn chặn và đẩy lùi mọi mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch, tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng đất nước, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trước những diễn biến hết sức phức tạp trên Biển Đông, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã kiên quyết và kiên trì đấu tranh trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế để giữ vững chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc, v.v. Nhờ đó, thế và lực, sức mạnh tổng hợp, uy tín quốc tế của Việt Nam không ngừng được nâng cao; lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ càng được tăng cường.
            Rõ ràng, những luận điệu xuyên tạc mục tiêu độc lập, tự do và đường lối độc lập, tự chủ của Đảng trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay là vô căn cứ và hết sức lố bịch. Trái với luận điệu kệch cỡm của các “nhà dân chủ” cho rằng: đường lối của Đảng do nước ngoài áp đặt. Thực tiễn 87 năm qua chứng minh: đường lối của Đảng ta bắt nguồn từ truyền thống văn hóa của dân tộc, xuất phát từ nhu cầu lịch sử của đất nước, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, nên tập hợp được tất cả sức mạnh của đồng bào trong nước, kiều bào nước ngoài, cũng như sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Thắng lợi của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đưa đất nước thoát khỏi ách xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trở thành một quốc gia độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,… ngày càng có vai trò và uy tín cao trên trường quốc tế. Thắng lợi đó, cùng với những thành tựu của 30 năm đổi mới vừa qua, càng làm cho nhân dân ta tin tưởng và quyết tâm theo Đảng, ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là minh chứng thuyết phục nhất, sự bác bỏ hùng hồn nhất đối với các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các thế lực thù địch.
                                                                                                            VINH HIỂN


TÔN TRỌNG THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ CỦA NHAU - NỀN TẲNG CỦA MỐI QUAN HỆ VIỆT - MỸ

            Hơn hai thập kỷ nay, quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã đạt được những bước tiến tích cực và thực chất. Kết quả đó do nhiều nguyên nhân, song cơ bản nhất do hai bên tôn trọng thể chế chính trị của nhau. Đây là cơ sở quan trọng để hai nước tiếp tục phát triển quan hệ trong thời gian tới.
            Kể từ sau thời điểm bình thường hóa quan hệ và thiết lập quan hệ ngoại giao (12-7-1995), Việt Nam và Hoa Kỳ đã không ngừng xây dựng, phát triển quan hệ hợp tác và từ năm 2013, hai nước trở thành đối tác toàn diện, trên tinh thần “gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai”.
            Tuy nhiên, để đi đến kết quả đó, giữa hai nước đã phải trải qua một quá trình đầy chông gai. Lịch sử từng biết đến những câu chuyện - như những cơ duyên - liên quan đến hai nhà lãnh đạo nổi tiếng của hai dân tộc. Ngài Thomas Jefferson - Tổng thống thứ ba của Hoa Kỳ, tác giả của Tuyên ngôn Độc lập năm 1776, người sáng lập ra đảng Dân chủ - Cộng hòa (tiền thân của hai Đảng Dân chủ và Cộng hòa ở Mỹ hiện nay) - khi còn là một nhà canh nông, đã từng tìm hiểu về nông nghiệp Việt Nam và đã cố gắng để đưa một giống lúa của Việt Nam về trồng ở trang trại của mình. Đó là câu chuyện về Chủ tịch Hồ Chí Minh - người khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tác giả của Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam - trong quá trình tìm đường cứu nước, vào năm 1913 đã đến Boston - nơi khởi đầu của cuộc cách mạng giành độc lập ở Hoa Kỳ, để tìm hiểu về nước Mỹ. Và sau này, khi đã là Chủ tịch của nước Việt Nam mới, trong phần mở đầu bản “Tuyên ngôn Độc lập” đọc trước quốc dân, đồng bào ngày 02-9-1945, Người đã trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”1. Trên cơ sở tiếp thu những tư tưởng tiến bộ của nhân loại, trong đó có tư tưởng trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định con đường phát triển của dân tộc cũng như chế độ chính trị của đất nước, v.v.
            Song, lịch sử cũng chứng kiến những sự kiện, đáng ra đã làm cho hai dân tộc xích lại gần nhau, nhưng đã bị phía Hoa Kỳ bỏ lỡ. Hoa Kỳ và Việt Nam từng là đồng minh trên mặt trận chống phát-xít. Ngay trong những ngày Cách mạng Tháng Tám diễn ra, bộ đội Việt Minh đã cứu giúp một trung úy phi công Mỹ bị quân Nhật bắn rơi và bàn giao cho phái bộ Hoa Kỳ ở Côn Minh (Trung Quốc). Quân đội Mỹ cũng từng cử một đội đặc nhiệm của Cơ quan Tình báo Quân sự (OSS) nhảy dù xuống Việt Bắc huấn luyện giúp Viêt Minh về chiến thuật, cách sử dụng điện đài, chất nổ,… phục vụ cho cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp. Sau khi Cách mạng Tháng Tám giành thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương thiết lập quan hệ “hợp tác toàn diện” với Hoa Kỳ. Người từng gửi 14 lá thư cho phía Hoa Kỳ, đặc biệt là cho Tổng thống Truman, đề nghị họ “ủng hộ nền độc lập còn non trẻ của Việt Nam”, v.v. Tuy nhiên, thiện chí đó đã không được đáp ứng. Nguyên nhân của nó, như lời Tổng thống Hoa Kỳ, Barack Obama khi sang thăm Việt Nam (tháng 5-2016) khẳng định: “Lẽ ra, cuộc chiến nhằm lật đổ chế độ thực dân đã khiến nhân dân hai nước nhanh chóng đoàn kết với nhau hơn. Tuy nhiên, thay vì thế, nỗi lo sợ chủ nghĩa cộng sản, chiến tranh Lạnh, và sự thù địch đã đẩy hai bên vào một cuộc chiến…”. Chính từ việc không tôn trọng con đường mà nhân dân Việt Nam lựa chọn, Hoa Kỳ đã đứng về phía Pháp, giúp đội quân thực dân chống lại Việt Minh để tiêu diệt “phong trào giải phóng dân tộc do những người cộng sản lãnh đạo” và “ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản bành trướng ở Đông Dương”, v.v. Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã làm hết sức mình để đoàn kết lực lượng và kiến tạo hòa bình, song vẫn phải đương đầu với Quân đội Pháp được Mỹ khuyến khích và viện trợ cả về tiền bạc, vũ khí và con người2. Cho đến tháng 5-1948, khi Hoa Kỳ đã trực tiếp viện trợ cho quân viễn chinh Pháp, Người vẫn tin tưởng ở nhân dân Mỹ: “Dân tộc Mỹ đã từng chiến đấu anh dũng để được độc lập và đã có độ lượng công nhận nền độc lập của Phi Luật Tân, tất nhiên phải đồng tình với nước Việt Nam tranh đấu giành độc lập”3. Sau này, khi chính quyền Mỹ đã trực tiếp đưa quân vào xâm lược miền Nam, quyết tâm đưa Việt Nam “trở lại thời kỳ đồ đá”, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tin về một giải pháp hòa bình giữa hai nước. Trong thư trả lời Tổng thống Mỹ Richard Nixon, ngày 23-8-1969, Người nhấn mạnh: “Với thiện chí của phía Ngài và phía chúng tôi, chúng ta có thể đi tới những cố gắng chung để tìm một giải pháp đúng đắn cho vấn đề Việt Nam”4, v.v. Sau khi hòa bình lập lại, đất nước thống nhất, nhân dân Việt Nam quyết tâm thực hiện mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: xây dựng lại đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Nhưng, do không chịu thừa nhận chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam và với thái độ thù địch, Mỹ và phương Tây thực hiện chính sách “bao vây, cấm vận”, hòng làm cho Việt Nam bị cô lập và sụp đổ! Thế nhưng, với đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã đoàn kết, ra sức phấn đấu đưa đất nước vượt qua mọi thử thách; đồng thời, tiến hành công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa giành được nhiều thắng lợi.
            Vượt qua bao vây, cấm vận, quan hệ bang giao của Việt Nam ngày càng rộng mở với nhiều quốc gia, trong đó có cả Hoa Kỳ. Trên cơ sở chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam khẳng định chính sách nhất quán coi trọng quan hệ với Hoa Kỳ; đưa quan hệ giữa hai bên ngày càng phát triển, đóng góp quan trọng vào hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển ở châu Á - Thái Bình Dương. Hai mươi hai năm qua, với tinh thần tôn trọng con đường của nhau, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ, hợp tác cùng có lợi, giữa hai nước đã có những đột phá về ngoại giao, với nhiều cuộc thăm viếng, kể cả ở cấp cao nhất. Các Tổng thống Mỹ: Bill Clinton, George Bush, Barack Obama tới thăm Việt Nam. Ở chiều ngược lại, các Chủ tịch nước của Việt Nam: Lê Đức Anh, Trần Đức Lương, Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang cũng đã tới thăm Hoa Kỳ. Các mối quan hệ, hợp tác song phương, nhất là về khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế, môi trường, an ninh - quốc phòng đạt được những bước tiến mạnh mẽ. Đặc biệt, quan hệ kinh tế, thương mại có sự phát triển vượt bậc; từ con số không, Hoa Kỳ trở thành đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam, là một trong những nhà đầu tư lớn nhất, là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Giữa hai nước cũng có sự phối hợp hiệu quả trong khắc phục, xử lý chất độc hóa học tồn lưu sau chiến tranh, nhất là việc xử lý ô nhiễm đi-ô-xin tại các sân bay: Đà Nẵng, Phù Cát, Biên Hòa, v.v.
            Tuy nhiên, vẫn còn đó những vấn đề tồn tại cần giải quyết, nhất là những cáo buộc đối với Việt Nam xung quanh vấn đề: dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền, của các tổ chức và cá nhân từ phía Hoa Kỳ. Trong các bản “Phúc trình thường niên về tình hình tự do tôn giáo quốc tế” do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố, phần nói về Việt Nam thường có những nhận định sai lệch so với thực tiễn diễn ra trên đất nước Việt Nam. Phía Việt Nam đã đấu tranh bác bỏ, với những lý lẽ và bằng chứng xác đáng, nhưng tình hình vẫn chưa được cải thiện. Đặc biệt, một số tổ chức có trụ sở đặt tại Hoa Kỳ, thường có nhiều hoạt động chống phá chế độ chính trị của Việt Nam, nhưng phía Hoa Kỳ chưa thể hiện hết vai trò, trách nhiệm của mình. Chẳng hạn “Việt Tân”, là một tổ chức khủng bố, đặt trụ sở tại SanJose (California), đã gây ra nhiều nợ máu đối với nhân dân Việt Nam và cả kiều bào Việt Nam ở nước ngoài, nhưng vẫn được tự do hoạt động. Gần đây, chúng tăng cường các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, như: mở các khóa đào tạo trực tuyến để huấn luyện cách chế tạo bom xăng, sử dụng chất nổ,… phục vụ cho các hoạt động ám sát, khủng bố. Trong thời gian xảy ra sự cố môi trường biển miền Trung, Việt Tân đã tập trung kích động biểu tình, gây rối, đập phá máy móc,… mưu toan tạo ra một cuộc “cách mạng cá”, nhưng đã thất bại. Bộ Công an Việt Nam đã có đầy đủ bằng chứng khẳng định: Việt Tân là một tổ chức khủng bố. Nhưng phía Hoa Kỳ, dựa trên những thông tin sai lệch, coi nó “là một tổ chức mang tính hòa bình, ủng hộ cải cách dân chủ”!?
            Không chỉ thế, đối với cái gọi là “Tổ chức Giám sát nhân quyền” (HRW) - một tổ chức có trụ sở tại thành phố New York được Chính phủ Hoa Kỳ tài trợ một phần về tài chính - thường có nhiều tuyên bố sai trái về Việt Nam, nhưng phía Hoa Kỳ vẫn bao che, dung dưỡng. Tự coi mình là tổ chức Giám sát về nhân quyền quốc tế, nhưng HRW không hề thể hiện vai trò đó ở Việt Nam. Họ không đếm xỉa gì đến tình cảnh hàng triệu người Việt bị phơi nhiễm chất độc da cam/đi-ô-xin, hay tình hình bom, mìn, vật liệu nổ do hậu quả của chiến tranh để lại. Họ cũng “không biết” đến những thành tựu của Việt Nam trong nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân và những kết quả đạt được trong xóa đói giảm nghèo, trong thực hiện “Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ” của Liên hợp quốc. Họ thường xuyên đưa ra những tuyên bố hoàn toàn không đúng với thực tế diễn ra ở Việt Nam, như cho rằng: “Việt Nam đàn áp một cách có hệ thống những người bất đồng chính kiến”; thậm chí còn tổ chức trao “giải thưởng nhân quyền” cho một số người luôn tìm cách phá hoại công cuộc đổi mới đất nước, mà họ gọi là “những người tích cực đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền Việt Nam”, v.v.
            Giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, mặc dù còn có những khác biệt, nhưng quan hệ giữa hai nước đã trở thành đối tác toàn diện. Phía Hoa Kỳ, lần đầu tiên đã mời Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng sang thăm và đón tiếp với nghi thức đón tiếp nguyên thủ quốc gia. Điều đó chứng tỏ, Hoa Kỳ đã tôn trọng quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Thực vậy, trong Văn kiện “Tầm nhìn chung” được ký kết giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Barak Obama vào tháng 7-2015 tại Washington, cả hai bên đều khẳng định nguyên tắc “Tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau”. Thiết nghĩ, đây vừa là nền tảng của mối quan hệ giữa hai nước, vừa là tiêu chí để hai bên giải quyết mọi tồn tại, bất cập, làm cho mối quan hệ giữa hai bên không ngừng phát triển, vì hòa bình, thịnh vượng và hạnh phúc của nhân dân hai nước. Đồng thời, còn là cơ sở để bác bỏ mọi sự hiềm kích của các thế lực thù địch, chỉ nhìn vào sự khác biệt và khoét sâu nó, hòng cản trở quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Nhưng họ đã, đang và chắc chắn sẽ bị thất bại nếu vẫn tiếp tục những âm mưu và hành động “cố đấm ăn xôi”!.
                                                                                    VINH HIỂN


CẢNH GIÁC VÀ KIÊN QUYẾT ĐẤU TRANH BÁC BỎ THÔNG TIN XẤU, ĐỘC TRÊN MẠNG

               Xuyên tạc, bịa đặt, “đổi trắng thay đen”, đưa tin mập mờ,… vốn là thủ đoạn được các thế lực thù địch và bọn phản động thường dùng để chống phá nước ta. Những thủ đoạn đó lại đang được “tiếp sức” bởi in-tơ-nét, mạng xã hội nên càng nguy hiểm hơn. Vậy, chúng ta hãy cảnh giác và dè chừng!
            Sau các “chiến dịch” rầm rộ chống phá Đại hội XII của Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2021 thất bại, họ tập trung xuyên tạc Nghị quyết Đại hội Đảng XII và các nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khóa XII để dựng chuyện, bịa đặt, bôi nhọ Đảng và đội ngũ cán bộ Đảng, Nhà nước ta. Họ lớn tiếng phê phán đường lối, chủ trương, chính sách do Đại hội XII vạch ra; coi đó là “lý luận rẻ tiền”, là “thứ hàng chợ quê”, đáp ứng “nhu cầu hạ cấp của những cư dân đang túng đói, hoang dã”, chứ không phải là “lý luận tiên tiến để đất nước phát triển, tiến lên hiện đại”! v.v. Họ nhạo báng Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng” là thứ lý luận “lú lẫn” không thể thực hiện được trong thực tế! Họ phê phán các quan điểm của Đảng về quốc phòng - an ninh; gây chia rẽ giữa nhân dân với lực lượng vũ trang; kích động hận thù dân tộc, v.v. Không những thế, họ còn dựng lên những câu chuyện đầy ác ý, nhằm vào các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước. Trên Youtube họ bịa ra: ông này nhận quà biếu bằng tượng vàng của Formosa, người kia có nhiều biệt thự ở nước ngoài; rồi những cuộc đấu đá nội bộ, giành giật quyền lực, kể cả ở những cấp cao nhất! Họ viện dẫn những vụ việc tiêu cực, tham nhũng rồi tự ý kết luận, rằng “bản chất của Đảng là tham nhũng”, hòng gieo rắc tâm lý nghi ngờ và kích động các hành vi chống đối chế độ. Cùng với đó, tiếp tục xuyên tạc Đảng và Nhà nước bóp nghẹt “tự do dân chủ”, “tự do báo chí”, v.v.
            Như vậy, họ tung lên các trang mạng xã hội đủ mọi loại thông tin xấu độc, trong đó có thông tin hoàn toàn bịa đặt, có thông tin đúng một phần, còn lại là “thêu dệt”; có thông tin chỉ là hiện tượng cá biệt nhưng được “nhào nặn” và quy thành phổ biến, có thông tin chỉ đúng về hình thức nhưng được quy là bản chất, v.v.
Những luận điệu xảo trá đó nhằm mục đích gì? Chắc chắn không phải vì lý do xây dựng mà nhằm mưu đồ sâu xa là chống Đảng Cộng sản Việt Nam và mưu toan xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhưng nhân dân ta - cả đồng bào trong nước và kiều bào nước ngoài - hiểu rõ bản chất của Đảng và những thành tựu của công cuộc đổi mới, nhất là trong những năm gần đây, không ai tin điều đó. Hơn thế, còn hiểu thấu lòng dạ của những kẻ nhân danh “dân chủ, nhân quyền” để rắp tâm phá hoại công cuộc xây dựng đất nước. Chẳng phải, chúng đã từng “phán” rằng: hiện nay Đảng không còn đủ tư cách lãnh đạo đất nước vì trong Đảng có nhiều người tham nhũng, thoái hóa, biến chất, và “yêu cầu” Đảng phải mạnh tay làm sạch nội bộ, loại bỏ những người đó ra khỏi Đảng đó sao? Thế mà, khi Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) ra Nghị quyết 04 thì họ lại lu loa châm chọc, công kích, phản bác và cho rằng, Đảng chỉ “giả vờ” như vậy, chứ “mọi quan chức của Đảng đều tham tiền”, thì làm sao chống được tham nhũng! Đúng là luận điệu rẻ tiền, đầy mâu thuẫn và nực cười! Họ đã nghiên cứu kỹ Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) và theo dõi tình hình thực hiện Nghị quyết đó trong những tháng qua, nhưng làm như không biết, thậm chí lấp liếm, nói bừa. Trong khi đó, Đảng ta không ngại chỉ rõ những yếu kém, khuyết điểm, thẳng thắn chỉ ra 27 biểu hiện của tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và cho việc tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên, nhất là một số người có chức, có quyền là rất nghiêm trọng. Đồng thời, khẳng định quyết tâm chính trị: “phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), với trọng tâm là đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ1, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là lực lượng tiên phong lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
            Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, dưới sự chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng, mà trực tiếp là đồng chí Tổng Bí thư, nhiều vụ án tham nhũng lớn, như: vụ tham nhũng tại Ngân hàng Xây dựng Việt Nam do Phạm Công Danh chủ mưu; vụ tham nhũng và rửa tiền tại Vinashinlines, do Trần Văn Liêm chủ mưu, được đưa ra xét xử công khai và những kẻ phạm tội đều phải nhận mức án thích đáng. Về kỷ luật trong Đảng: tất cả những người vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước, dù là ai, ở cương vị nào, đều phải điều tra làm rõ và có hình thức kỷ luật tương xứng. Trong đó, khai trừ Đảng đối với ông Trịnh Xuân Thanh, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang; cách chức Bí thư Ban cán sự Đảng Bộ Công thương giai đoạn 2011 - 2016 và xóa tư cách nguyên Bộ trưởng Bộ Công thương đối với ông Vũ Huy Hoàng; đang kiểm tra, xem xét, kết luận về thông tin liên quan đến số cổ phần mà Thứ trưởng Bộ Công thương Hồ Thị Kim Thoa nắm giữ tại Công ty cổ phần Bóng đèn Điện Quang. Cùng với đó, theo chỉ đạo của Chính phủ, các cơ quan chức năng đã và đang kiểm tra một số dự án có dấu hiệu mờ ám làm thất thoát lớn ngân sách Nhà nước, như: Bộ Tài nguyên và Môi trường thanh tra toàn diện Dự án Núi Pháo tại Thái Nguyên; Thanh tra Chính phủ thanh tra toàn diện Dự án Mobifone mua 95% cổ phần của Công ty Cổ phần nghe nhìn Toàn cầu (AVG) đang thua lỗ lớn, v.v.
            Không phủ nhận rằng, công cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay vẫn còn khó khăn và chưa đạt được kết quả như mong muốn. Tham nhũng, “lợi ích nhóm” đã hình thành từ lâu; những kẻ tham nhũng rất “ranh mãnh” và “lọc lõi”. Bởi vậy, chống tham nhũng, “lợi ích nhóm” là cả một quá trình phức tạp, không thể kết thúc trong “một sớm, một chiều”. Muốn vạch mặt những kẻ tham nhũng, “lợi ích nhóm”, phải điều tra, xem xét nhiều yếu tố, mọi khía cạnh các mối quan hệ phức tạp. Trong quá trình thực hiện, phải căn cứ vào các quy định pháp luật để điều tra kỹ lưỡng từng sự kiện, vụ việc, nếu có dấu hiệu vi phạm quy định hành chính hay pháp lý thì chuyển sang các cơ quan tư pháp xem xét về mặt hình sự. Công việc này đòi hỏi thời gian, sự thận trọng và kiên trì. Nhưng với phương châm chỉ đạo “không có vùng cấm” và sự quyết tâm cao của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, sự vào cuộc đồng bộ của các cơ quan chức năng, cùng với sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, cuộc đấu tranh cam go này đã đạt được những kết quả bước đầu quan trọng. Và, chúng ta tin tưởng rằng, đó là cơ sở cho những thành quả trong thời gian tới. Vì thế, chúng ta không cho phép bất cứ ai, kẻ chống đối nào bịa đặt, xuyên tạc ý nghĩa và kết quả cuộc đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
            Bên cạnh đó, hiện nay trên các trang mạng xã hội đang xuất hiện hàng loạt các website, blog giả danh các đồng chí lãnh đạo Ðảng, Nhà nước và một số báo điện tử có uy tín. Đây thực sự là trò lừa đảo, giăng những “cái bẫy” vô cùng nguy hiểm để đầu độc, lừa gạt những người nhẹ dạ cả tin. Trên các trang mạng giả danh, thoạt đầu họ đăng tải một số thông tin có vẻ “chân thật”, “chính danh”, các thông tin liên quan đến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tiếp đó là xen lẫn các bài viết mập mờ theo lối “rộng đường dư luân” và những thông tin bịa đặt, xuyên tạc, bôi nhọ Đảng, chế độ ta, từ đó kích động tư tưởng chống đối chính quyền các cấp. Bằng cách lập lờ “đen - trắng” lẫn lộn như vậy, họ rắp tâm đưa thông tin của các trang mạng cực đoan, hoặc bài viết của những kẻ chống đối núp dưới chiêu bài "tự do, dân chủ, nhân quyền",… đến với công chúng. Thủ đoạn này hết sức thâm độc, xảo quyệt bởi họ biết, những website mang tên các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước thường dễ thu hút sự chú ý của nhiều bạn đọc. Đặc biệt, các báo điện tử có uy tín là những địa chỉ đáng tin cậy, mỗi khi tìm hiểu tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, nhân dân ta thường truy cập vào. Những thủ đoạn đó, nếu không bị vạch mặt và ngăn chặn kịp thời, sẽ để lại hậu quả khôn lường. Bởi, các thông tin độc hại đó sẽ làm bạn đọc mất phương hướng, và uy tín của những tờ báo chính danh sẽ bị sứt mẻ vì sự giả danh của những kẻ vô liêm sỉ!
            Trong “thế giới phẳng” hiện nay, sự lợi dụng mạng thông tin toàn cầu của những kẻ xấu để hô hào, cổ súy cho các quan điểm phản động, sai trái chống phá đất nước, chống phá chế độ là rất nguy hiểm đối với an ninh chính trị, tư tưởng, văn hóa và lợi ích quốc gia, dân tộc, thậm chí còn liên quan đến sự mất còn của chế độ, đất nước. Vì thế, cùng với việc tích cực, chủ động đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái thù địch, cần có biện pháp quản lý chặt chẽ thông tin trên mạng. Nhà nước ta đã có các văn bản pháp luật quy định cụ thể về các nội dung đó, như: Nghị định 72/2013/NĐ-CP, ngày 15-7-2013, Nghị định 174/2013/NĐ-CP, ngày 13-11-2013 của Chính phủ và mới đây là Thông tư 38/2016/TT-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông “Quy định chi tiết về việc cung cấp thông tin công cộng qua biên giới”. Đó là những văn bản pháp quy phục vụ thiết thực, hiệu quả cho cuộc đấu tranh “không khói súng” nhưng vô cùng cam go, quyết liệt này. Có lẽ vì thế mà các thế lực thù địch, các “nhà dân chủ” đang điên cuồng công kích với đủ thứ giọng điệu. Họ la lối rằng, Nhà nước Việt Nam “đang bóp nghẹt tự do báo chí”, rằng Thông tư 38 “chặn thông tin của người dùng là vi phạm nhân quyền” và “Theo luật nước ngoài, tài khoản mạng xã hội thuộc nhóm bí mật đời tư của cá nhân, được bảo vệ và bất khả xâm phạm”.
            Nhưng, đó chỉ là những tiếng la lối lạc lõng trong vô vọng. Hãy tin rằng, không có và không thể có tự do in-tơ-nét tuyệt đối! Đó là thực tế, là sự thật hiển nhiên. Việt Nam, cũng như các quốc gia khác có chủ quyền trên thế giới, không cho phép bất cứ ai xâm phạm, xâm hại chủ quyền, lãnh thổ của mình, kể cả lợi dụng việc cung cấp và sử dụng in-tơ-nét để chống phá đất nước và chế độ.
                                                                                    NGUYỄN THÁI YÊN