Thứ Hai, 13 tháng 11, 2017

CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI ĐÃ CHIẾU RỌI ÁNH SÁNG MỚI VÀO LỊCH SỬ LOÀI NGƯỜI

Là người Việt Nam đầu tiên nhận thức rõ giá trị to lớn và tầm vóc thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã có nhiều bài viết thể hiện sự ngưỡng mộ sâu sắc, lòng biết ơn chân thành của người cộng sản và nhân dân Việt Nam đối với Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Báo Quân đội nhân dân trân trọng giới thiệu một phần trong tác phẩm "Cách mạng Tháng Mười đã chiếu rọi ánh sáng mới vào lịch sử loài người", được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết theo lời đề nghị của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (Liên Xô) nhân dịp kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng Mười Nga.
“Như ánh mặt trời rạng đông xua tan bóng tối, cuộc Cách mạng Tháng Mười đã chiếu rọi ánh sáng mới vào lịch sử loài người. Cách đây 40 năm, giai cấp vô sản Nga do Đảng của Lênin lãnh đạo, liên minh vững chắc với nông dân lao động, đã lật đổ chính quyền của bọn tư bản và địa chủ. Nhà nước Xô viết, nhà nước của chuyên chính vô sản, đem đến cho nhân dân nền dân chủ thật sự, đã chứng tỏ sức sống và lực lượng không gì phá nổi của mình.
Cách mạng Tháng Mười là thắng lợi của lực lượng cách mạng của quần chúng lao động, nó là một sự rung chuyển vô cùng mạnh mẽ và nó đã tạo điều kiện tỏ rõ sức sáng tạo của quần chúng lao động. Cách mạng Tháng Mười thắng lợi đã chứng minh tính chất đúng đắn của Chủ nghĩa Mác-Lênin, nó đã mở đường đi đến những thắng lợi mới của giai cấp công nhân trong cuộc sống xã hội, trên cơ sở lòng trung thành sắt đá với những nguyên tắc của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Cách mạng Tháng Mười thành công nhờ sự sáng suốt và tinh thần anh dũng của Đảng của Lênin, Đảng của giai cấp vô sản, đã đánh dấu việc mở đầu một kỷ nguyên mới trong lịch sử loài người và một giai đoạn mới trên con đường lâu dài và vẻ vang mà Đảng cách mạng của giai cấp vô sản Nga đã đi qua.
Do kết quả của Cách mạng Tháng Mười, những nhiệm vụ lịch sử có một ý nghĩa quan trọng lớn lao đã được trao cho Đảng của Lênin, và Đảng đã hoàn thành vẻ vang những nhiệm vụ đó. Các dân tộc trước kia bị áp bức đã trở thành những người làm chủ vận mệnh của mình. Đế quốc Nga hoàng đã bị xóa bỏ, đế quốc đó trước kia vừa là nhà tù của các dân tộc lại vừa bị nhóm tài phiệt thế giới nô dịch. Nhân dân không còn là một thứ đồ chơi, những cái máy bằng thịt, những hòn đạn bằng thịt của bọn đế quốc kèn cựa, sâu xé nhau. Quần chúng lao động đã phá tan cảnh đầy đọa của nước Nga tư sản. Trong nước Nga tư sản đó cũng như ở các nước khác, nhân dân lao động đã từng ở dưới ách tàn khốc của tư bản, địa chủ; quần chúng lao động là những người sáng tạo ra tất cả mọi của cải thì bị dìm trong đói khổ và ngu dốt, hai cái đó là số phận khốc hại và lâu đời của đại bộ phận loài người. Lần đầu tiên trong lịch sử loài người, nhân dân lao động đã bắt tay vào xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa không có bóc lột và áp bức dân tộc. Với sự lao động gương mẫu, giác ngộ cao, và có hiệu suất ngày càng tốt đẹp, với lòng trung thành không bờ bến đối với sự nghiệp của mình, sự nghiệp của con cháu mình cũng như sự nghiệp của những anh em mình còn đang khổ sở dưới ách nô dịch, người Liên Xô đã biến cái mộng lâu đời ước ao hạnh phúc thành sự thật chói lọi, biểu hiện rõ rệt trên một phần sáu Trái Đất...”.


PHÒNG NGỪA, NGĂN CHẶN HOẠT ĐỘNG TÁN PHÁT CÁC TÀI LIỆU, ẤN PHẨM XẤU ĐỘC

Xuất bản, tán phát các ấn phẩm, tài liệu có nội dung xuyên tạc, bóp méo sự thật để hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế là một trong những phương thức hoạt động chủ yếu của các thế lực thù địch; trong đó, chúng tập trung phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động thâm độc, nguy hiểm này là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay.
Nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiến tới thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thế lực thù địch đã và đang tăng cường chống phá bằng nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Trong đó, chúng đặc biệt coi trọng việc xuất bản, tán phát các ấn phẩm, tài liệu để tuyên truyền, xuyên tạc tình hình thực tế của đất nước, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp dân tộc, tôn giáo,... gây mâu thuẫn, chia rẽ nhân dân với Đảng, chính quyền, phá vỡ sự đồng thuận xã hội. Đồng thời, làm suy giảm lòng tin của quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; kích động các đối tượng cơ hội, bất mãn trong nước hoạt động chống đối và khi có thời cơ lôi kéo quần chúng vào các cuộc bạo loạn chính trị. Qua nghiên cứu, có thể phân loại các ấn phẩm, tài liệu chính như sau:
Một là, các nghị quyết, dự luật,… của Nghị viện, Quốc hội Mỹ, Úc, các nước phương Tây (Anh, Thụy Sỹ,…). Các ấn phẩm này thường có những nhận xét sai lệch, thiếu khách quan về tình hình dân chủ, nhân quyền ở các quốc gia; trong đó có Việt Nam, nhằm đưa ra các yêu sách trong quan hệ ngoại giao song phương, đa phương, can thiệp sâu vào nội bộ Việt Nam. Điển hình như: Báo cáo thường niên về tự do tôn giáo quốc tế của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ; Báo cáo, Nghị quyết thường niên của Quốc hội châu Âu, Anh về tình hình nhân quyền thế giới, v.v.
Hai là, các văn bản pháp lý của các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ (NGO) gửi Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng của Việt Nam với nội dung phản ánh sai lệch tình hình trong nước, như: Thông cáo báo chí của tổ chức Ân xá Quốc tế (AI), Kháng thư của Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW), v.v.
Ba là, các ấn phẩm xuất bản, như: sách, báo, tạp chí, tập san, tờ rơi, truyền đơn,… của các cá nhân, tổ chức phản động lưu vong gửi Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, các NGO hoạt động trên lĩnh vực nhân quyền, các hoạt động của lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam, với nội dung không đúng sự thật hoặc bóp méo, xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền trên các lĩnh vực dân tộc, tôn giáo.
Bốn là, các chương trình phát thanh, phát hình bằng tiếng Việt định kỳ của các hãng VOA, RFA, RFI,… có nội dung cập nhật mặt trái của tình hình dân chủ, nhân quyền trong nước, nhưng được xuyên tạc, thổi phồng hoặc tô đậm những yếu kém, vi phạm của chính quyền các cấp trong giải quyết các vụ việc phức tạp liên quan đến tôn giáo, dân tộc; xử lý các đối tượng lợi dụng tự do báo chí, tự do ngôn luận để vu cáo, rêu rao Việt Nam vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo, v.v.
Cùng với đó, các thế lực bên ngoài đã lập ra các đài phát thanh, truyền hình và website, blog, diễn đàn; lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng, in-tơ-nét để thực hiện chiến dịch phá hoại tư tưởng, chống phá Việt Nam. Thông qua hợp tác trên các lĩnh vực bưu chính viễn thông, báo chí, xuất bản trong nước, chương trình hợp tác quốc tế, dự án đào tạo báo chí, các hội thảo để móc nối, tác động chuyển hóa tư tưởng. Chúng còn lợi dụng đường thư tín, bưu phẩm, bưu kiện, nhân viên ngoại giao, các đoàn khách quốc tế vào thăm, làm việc tại Việt Nam để chuyển tải các ấn phẩm, báo cáo, tài liệu vào nước ta, đầu độc thông tin, làm cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ xa rời mục tiêu, lý tưởng, mất lòng tin vào Đảng, từng bước hình thành xu hướng ly khai, lôi kéo dựng “ngọn cờ”, tập hợp lực lượng, tiến tới hình thành đảng đối lập, thúc đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” ở nước ta.
Nhằm triển khai các chiến dịch phá hoại tư tưởng nêu trên, các thế lực thù địch ráo riết xuất bản, tán phát, chuyển tải các ấn phẩm, tài liệu vào trong nước, thông qua hàng trăm trang web, blog, báo điện tử, diễn đàn phản động trên mạng in-tơ-nét, hàng trăm báo, tạp chí, nhà xuất bản, hàng chục đài phát thanh có chương trình tiếng Việt. Chúng triệt để lợi dụng thời điểm trong nước diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng hoặc xảy ra các vụ việc phức tạp để tán phát các ấn phẩm, tài liệu phản động nhằm cổ súy cho số đối tượng chống đối; phục vụ cho các kỳ họp Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc có đoàn Việt Nam tham gia nhằm hạ thấp uy tín Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế. Các cá nhân, tổ chức phản động lưu vong còn tìm cách tác động các chính khách cực đoan Mỹ, phương Tây (L.Sanchez, Tremosa I.Balcells,…) thường xuyên gây sức ép Hạ viện Mỹ, Anh, Quốc hội EU ra nghị quyết, dự luật xuyên tạc, vu cáo tình hình dân chủ, nhân quyền để lấy cớ đưa yêu sách và can thiệp vào nội bộ Việt Nam. Họ thông qua các hội nghị, điều trần của Hội đồng Nhân quyền, Hội đồng kinh tế - Văn hóa - Xã hội của Liên hợp quốc; các hội nghị của Quốc hội Mỹ, Nghị viện châu Âu, các nước phương Tây để gây sức ép ra các “báo cáo”, “thông cáo”, “nghị quyết”,… tuyên truyền, xuyên tạc về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Từ năm 1999 đến nay, hằng năm, Bộ Ngoại giao Mỹ cho ra cái gọi là “Báo cáo thường niên về tự do tôn giáo quốc tế” đánh giá thiếu khách quan về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, nhiều lần đưa Việt Nam vào danh sách CPC và áp dụng biện pháp trừng phạt vì cho rằng Việt Nam “vi phạm tự do tôn giáo trầm trọng”(!)
Để đấu tranh, ngăn chặn hoạt động đó, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, luật, văn bản chỉ đạo và quản lý hoạt động trên lĩnh vực này1. Các cơ quan chức năng đã chủ động triển khai biện pháp đấu tranh, ngăn chặn hoạt động xuất bản, tán phát các ấn phẩm, tài liệu tuyên truyền, xuyên tạc tình hình nước ta; phát hiện sơ hở, thiếu sót, bất cập trong các quy định của pháp luật về quản lý trên lĩnh vực thông tin - truyền thông để tham mưu, kiến nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện; chỉ đạo các cơ quan báo chí đẩy mạnh tuyên truyền, phản bác luận điệu sai trái, thù địch. Thông qua các kênh hợp tác song phương, đa phương, đối ngoại nhân dân, qua tiếp xúc với các đoàn quốc tế quan tâm đến nhân quyền ở Việt Nam, chúng ta đã chuyển tải chính sách, thành tựu đảm bảo quyền con người tới bạn bè quốc tế, góp phần đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc về dân chủ, nhân quyền đối với nước ta. Qua đó, tranh thủ được sự hợp tác và hỗ trợ của các nước, các tổ chức quốc tế trên nhiều lĩnh vực, góp phần ngăn chặn những hành động xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền; đấu tranh, phê phán những hoạt động thiếu thiện chí của các tổ chức, cá nhân bên ngoài đối với Việt Nam.
Tuy nhiên, công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động tán phát ấn phẩm, tài liệu xuyên tạc tình hình ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Công tác nắm tình hình có lúc, có nơi còn thụ động; công tác quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản, in-tơ-nét còn nhiều bất cập. Hệ thống pháp luật trên lĩnh vực này chưa được hoàn thiện, bộc lộ nhiều sơ hở để kẻ địch lợi dụng. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong phòng ngừa, đấu tranh chưa thường xuyên, nặng hình thức. Tình trạng vi phạm định hướng tuyên truyền và các quy định trong việc đăng thông tin, bài viết nhạy cảm, tán phát trên phương tiện thông tin đại chúng có chiều hướng gia tăng, diễn biến phức tạp. Tổ chức bộ máy làm công tác bảo vệ, đấu tranh trên lĩnh vực này còn thiếu, trình độ kỹ thuật chuyên môn, nghiệp vụ chưa chuyên sâu; việc xử lý vi phạm chưa đủ sức răn đe.
Để nâng cao hiệu quả đấu tranh, ngăn chặn hoạt động tán phát ấn phẩm, tài liệu chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch, cần tập trung thực hiện một số giải pháp trọng tâm sau:
Một làcác cơ quan chức năng cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ trong nắm tình hình, phát hiện kịp thời, chủ động đấu tranh. Cần phối hợp làm tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, nhất là việc xuất bản, tán phát các tài liệu xấu độc chống phá cách mạng Việt Nam. Sự phối hợp cần được thực hiện thường xuyên, nhưng tập trung vào thời điểm các thế lực bên ngoài chuẩn bị ra các loại văn bản, tài liệu, xuất bản các ấn phẩm, mở các chiến dịch tán phát tài liệu phản động vào nước ta để chủ động đấu tranh, ngăn chặn. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng, tác động trực tiếp đến hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động này. Do vậy, chúng ta cần chủ động nắm tình hình ngay từ bên ngoài, đi sâu vào trung tâm phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch để có các biện pháp đấu tranh, ngăn chặn kịp thời ngay khi mưu đồ của chúng mới manh nha.
Hai là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các quy định của pháp luật trong lĩnh vực thông tin - truyền thông, xuất bản, báo chí, quản lý in-tơ-nét. Đây là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng, phát triển và hội nhập quốc tế. Do vậy, cần chủ động rà soát lại hệ thống pháp luật hiện hành, xác định những quan hệ xã hội nảy sinh trên lĩnh vực này chưa được pháp luật điều chỉnh để kiến nghị Nhà nước xây dựng, ban hành mới văn bản pháp luật, góp phần phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động xuất bản, tán phát tài liệu, ấn phẩm của các thế lực thù địch mang nội dung xấu độc. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cần phải được tiến hành khẩn trương, thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, đúng đường lối của Đảng; đồng thời, phải quán triệt đầy đủ tinh thần của các nguyên tắc cơ bản của pháp luật xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho việc đấu tranh, ngăn ngừa với những hoạt động chống phá Việt Nam.
Ba lànâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực thông tin - truyền thông, xuất bản, báo chí, quản lý in-tơ-nét. Tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành các chỉ thị, nghị quyết về tiếp tục đẩy mạnh phối kết hợp giữa các ban, bộ, ngành chức năng trong công tác phòng ngừa, đấu tranh; có cơ chế kiểm tra, giám sát đối với nhiệm vụ này. Tăng cường quản lý các dự án hợp tác trên lĩnh vực bưu chính, viễn thông, hoạt động xuất, nhập khẩu văn hóa phẩm; kịp thời phát hiện, chấn chỉnh sai phạm trong hoạt động kinh doanh, kiểm tra, phát hiện các trang web, blog có nội dung xấu, độc hại để xử lý, ngăn chặn kịp thời. Thông qua hợp tác quốc tế, cần tranh thủ sự ủng hộ của các chính khách, các tổ chức quốc tế nhằm tác động chuyển hóa thái độ số đối tượng chống đối theo hướng tích cực, góp phần hạn chế việc ủng hộ ra các nghị quyết, dự luật xuyên tạc dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả để có biện pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh đối với thủ đoạn này.
Bốn làthường xuyên ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ mới, trang bị các phương tiện thiết bị hiện đại, nhằm phục vụ hiệu quả công tác quản lý, kiểm duyệt, kiểm tra trong lĩnh vực quản lý báo chí, thông tin - truyền thông, xuất bản, in-tơ-nét, đáp ứng kịp thời yêu cầu công tác phòng ngừa, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng khoa học - công nghệ để xuất bản, tán phát các tài liệu, ấn phẩm chống phá Việt Nam. Các cơ quan chủ quản trong lĩnh vực báo chí, thông tin - truyền thông, xuất bản cần thường xuyên bổ sung, củng cố tổ chức nhân sự, nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn, giỏi về nghiệp vụ, đáp ứng kịp thời yêu cầu do tình hình công tác đặt ra.
Năm làphải tạo ra các điều kiện thuận lợi, những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực ở trong nước, nhằm không để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá. Trước hết, phải xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đề cao vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc quản lý và xây dựng đất nước. Cùng với đó, cần tăng cường phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân. Chủ động nắm tình hình, giải quyết kịp thời và dứt điểm các vụ việc tranh chấp, khiếu kiện đất đai, các vụ đình công, lãn công, đòi cơ sở thờ tự tôn giáo, không để hình thành “điểm nóng” để các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng thổi phồng, xuyên tạc tình hình, can thiệp, đưa yêu sách, làm phức tạp tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên các địa bàn.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ thiết thực ngăn chặn, đầy lùi sự tán phát ấn phẩm, tài liệu xấu độc vào nước ta, góp phần làm thất bại mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch, giữ vững sự ổn định chính trị, bảo vệ Đảng, chế độ và Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
NGUYỄN ĐỨC QUỲNH


Chủ Nhật, 29 tháng 10, 2017

TƯ TƯỞNG TRUNG BÌNH CHỦ NGHĨA - CÁI BẪY CỦA SỰ TRÌ TRỆ, SUY THOÁI, LẠC HẬU

Tư tưởng trung bình chủ nghĩa được xác định là một trong những biểu hiện của “tự diễn biến", "tự chuyển hóa” trong nội bộ theo Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng.
Đây là một trạng thái tư tưởng, một lề lối công tác, một cách thức thể hiện của các cán bộ, đảng viên khiến tổ chức đảng, cơ quan Nhà nước dễ lâm vào trạng thái trì trệ, mất tính tiền phong, tính chiến đấu, dẫn tới làm suy giảm thậm chí triệt tiêu vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của cơ quan. Trên bình diện quốc gia, tư tưởng trung bình chủ nghĩa có thể dìm một quốc gia thụt lùi dần trong lúc các nước khác phát triển như vũ bão. 
Tư tưởng trung bình chủ nghĩa thực chất là một dạng của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội. Tư tưởng này có cơ hội tồn tại và trở thành phổ biến trong cơ chế phân phối theo kiểu bình quân chủ nghĩa; trong cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp; cơ chế đánh giá hiệu quả công việc theo kiểu cào bằng, không rõ trách nhiệm cá nhân.
Các lãnh tụ cách mạng đã chỉ ra những nguy cơ từ các nhóm trung bình, hạng người trung bình trong tổ chức. Theo V.I.Lenin, trong quan hệ xã hội, chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh biểu hiện thành nhóm trung gian, nhóm trung bình chủ nghĩa. Đây là những người thỏa mãn và an tâm với hoàn cảnh của mình, xa lạ với hết thảy mọi ước mơ “viển vông”, nhưng biết rất rõ mình muốn cái gì. Họ cầu cạnh danh lợi và là những kẻ tôi đòi để đạt danh lợi trong “hòa bình”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, tư tưởng trung bình chủ nghĩa cơ bản thể hiện ở nhận thức và thái độ của con người. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “bất kỳ nơi nào có quần chúng, thì nhất định có ba hạng người: Hạng hăng hái, hạng vừa vừa và hạng kém, hạng ở giữa nhiều hơn hết, hạng hăng hái và hạng kém đều ít hơn …”. Hạng người vừa vừa, hạng ở giữa chính là biểu hiện của tư tưởng trung bình chủ nghĩa. Hạng người này thường chiếm số đông trong tập thể, do đó, hình thức biểu hiện của nó rất đa dạng. Tư tưởng trung bình chủ nghĩa, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không chỉ có trong phân phối, mà biểu hiện cả trong chính trị, đạo đức, lối sống.
Sẽ có không ít người lầm tưởng rằng những người có tư tưởng trung bình chủ nghĩa trong một cơ quan, một tổ chức chỉ đơn giản là những người ít có đóng góp, nhưng là người “vô hại”. Điều này hoàn toàn sai lầm. Thực tế đã chứng minh, tư tưởng trung bình chủ nghĩa chính là nguy cơ rất lớn gây ra sự trì trệ, suy thoái, tụt hậu của các tổ chức, đảng phái, tới cả quốc gia. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có nguyên nhân do áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp mà trong đó tư tưởng trung bình chủ nghĩa có cơ hội tồn tại. Thực tế, những người trung bình chủ nghĩa là một lực cản lớn cho các cơ quan, tổ chức, đó là vì:
Thứ nhất, nếu tạm mặc định kiến thức, trình độ học vấn của mọi cá nhân trong một cơ quan, tổ chức là như nhau thì những người có động lực cống hiến, làm việc nhiều hơn chắc chắn sẽ vươn lên có một năng lực tốt hơn. Những người trung bình chủ nghĩa lúc nào cũng muốn an nhàn, không có động lực cống hiến, không có động cơ phấn đấu làm việc hết mình, không nỗ lực để hoàn thành tốt hơn công việc do mình đảm nhiệm, mà chỉ làm cho xong chuyện. Họ không chỉ “giậm chân tại chỗ” mà còn sẽ dần tụt dốc so với chính họ do không hết mình trong công việc và tụt hậu trước nhu cầu phát triển của xã hội, yêu cầu của công việc. Yêu cầu đặt ra đối với chất lượng hoạt động của các cơ quan, đơn vị, đặc biệt là các cơ quan hành chính Nhà nước ngày càng cao, sự “giậm chân tại chỗ” cũng có nghĩa là ngày càng không đáp ứng được yêu cầu của công việc.
Thứ hai là tuy rất trì trệ nhưng những người trung bình chủ nghĩa vẫn giữ chắc vị trí công việc, giữ chắc biên chế Nhà nước. Sự tồn tại của họ khiến những người mới tốt hơn không có cơ hội để tham gia vào cơ quan, tổ chức, đơn vị đó nữa.
Thứ ba, những người trung bình chủ nghĩa không thể tồn tại được trong một môi trường, một tổ chức giàu động lực và khát vọng. Vì thế, để tồn tại, họ buộc phải ngăn trở cái mới, ngăn trở những nỗ lực buộc họ phải thay đổi. Họ có xu hướng liên thủ để bảo vệ một môi trường làm việc “làng nhàng”, “lờ nhờ”, muốn một sự “yếu kém ổn định” của tổ chức, cơ quan, đơn vị, còn hơn là tạo ra những sự đột phá, thay đổi để rồi họ không tồn tại được. Họ không thích những cán bộ có tư duy đột phá, những đồng nghiệp xuất sắc, những đồng nghiệp có tinh thần đấu tranh thẳng thắn, vì đó là những người có thể sẽ tạo ra những sự thay đổi tích cực. Chính vì thế, họ gièm pha, ngăn trở sự phát triển của những người này.     
Đối với tổ chức đảng, nếu bộ phận đảng viên có tư tưởng trung bình chủ nghĩa càng nhiều thì tính tiền phong, chiến đấu, vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng chắc chắn sẽ giảm sút. Có thể dễ dàng nhận ra hiện nay có một bộ phận không nhỏ đảng viên chưa thể hiện được những phẩm chất mẫu mực; chỉ thích làm việc dễ, nhàn hạ, mang lại nhiều quyền lợi, lảng tránh việc khó, né tránh những nơi khó khăn, gian khổ; chỉ nghĩ tới quyền lợi của mình, không đếm xỉa tới lợi ích của tập thể, của cộng đồng, của đất nước. Có không ít cá nhân vào Đảng chỉ với mục đích rất thực dụng là tạo thuận lợi để kiếm một suất biên chế Nhà nước. Đó là những biểu hiện nếu không được khắc phục triệt để thì sẽ dẫn tới việc người dân mất dần niềm tin vào đảng viên, rồi cả tổ chức đảng.    
Trên bình diện quốc gia, các nhà kinh tế học đã chỉ ra một cái bẫy mà các nước đang phát triển rất dễ sa vào, đó là “cái bẫy thu nhập trung bình”. Nghĩa là tình trạng khi một quốc gia đạt đến mức thu nhập bình quân nhất định (do những lợi thế sẵn có) và giậm chân tại mức thu nhập ấy mà không thể vượt qua ngưỡng đó để trở nên giàu có hơn. Để vượt qua được cái bẫy trung bình ấy cần những nỗ lực rất lớn, cần sự sáng tạo, đổi mới không ngừng để vươn lên chiến thắng trong cạnh tranh kinh tế toàn cầu. Muốn thoát được “bẫy thu nhập trung bình” cần phải có một nền kinh tế hiệu quả, mà muốn thế trước hết phải có một nền quản trị quốc gia hiệu quả.
Nền quản trị quốc gia không thể hiệu quả nếu chỉ có những chiến lược, chủ trương, quyết sách đúng đắn của Đảng, của Nhà nước ở “thượng tầng”, trong khi ở “hạ tầng”, ở cơ sở việc triển khai lại không đồng bộ, không với quyết tâm cao nhất, không có trách nhiệm cao nhất. Trong những cản lực ở cơ sở thì những cản lực từ đội ngũ cán bộ, nhân viên Nhà nước “sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về” là không nhỏ. Bộ phận cán bộ, nhân viên ấy có năng lực làng nhàng, thiếu trách nhiệm, thiếu sâu sát rất dễ nhiễm thói quan liêu, đưa ra những quy định trên trời gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp.  
Trong suốt quá trình đổi mới, Đảng ta luôn kiên trì phê phán tư tưởng trung bình chủ nghĩa. Việc xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xét về nguyên tắc, là xóa bỏ tư tưởng trung bình chủ nghĩa. Tuy vậy, tư tưởng này cho đến nay vẫn tồn tại khá phổ biến gây rất nhiều nguy cơ như đã phân tích ở trên. Để loại bỏ tư tưởng này trong sinh hoạt Đảng, chấn chỉnh, nâng cao phẩm chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên thì cần phải thực hiện những việc sau:
Thứ nhất là mỗi cán bộ, đảng viên phải xác định lại tư tưởng, động lực lao động của mình; phải sống có lý tưởng, có hoài bão; nuôi dưỡng khát vọng hoàn thiện bản thân, có khát vọng cống hiến cho cộng đồng, cho đất nước. 
Thứ hai là trong công tác tổ chức cán bộ cần phải đề ra được những tiêu chí khách quan, khoa học để đánh giá đúng năng lực của cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh luân chuyển cán bộ; mạnh dạn thay thế những cá nhân yếu kém, trung bình bằng những cá nhân mới tốt hơn. Cần chọn được những người đứng đầu có năng lực quản lý, lãnh đạo, có chuyên môn tốt, giàu nhiệt huyết, từ đó để làm đầu tàu xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh.
Một trong những nội dung trọng tâm của Hội nghị Trung ương 6, khóa XII của Đảng vừa qua là bàn về việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh gọn đầu mối, tinh giản biên chế. Việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy, biên chế ấy là thực sự cấp thiết. Nhưng muốn thực hiện thành công thì phải có một quyết tâm rất lớn, cần một nhận thức đúng đắn của toàn thể cán bộ, đảng viên, việc tinh giản biên chế chắc chắn sẽ động chạm đến bộ phận cán bộ, đảng viên thuộc “nhóm yếu kém” và “nhóm trung bình”.
Tính tiền phong, gương mẫu là thuộc tính của Đảng ta. Năm 1945, Đảng ta chỉ có khoảng 5.000 đảng viên mà có thể vận động toàn dân làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám trên cả nước thành công vang dội, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Đó là vì 5.000 đảng viên ấy thực sự là 5.000 cá nhân mẫu mực, là những ngọn cờ để quần chúng đi theo. Theo công bố vào tháng 3-2016, Đảng ta đã có 4,65 triệu đảng viên. Nếu tất cả đảng viên đều nêu cao tinh thần tiền phong, “đảng viên đi trước làng nước theo sau” thì chắc chắn sức sống, sức chiến đấu của Đảng ta sẽ mạnh mẽ hơn rất nhiều, sẽ lãnh đạo nhân dân đưa đất nước ta tăng tốc trên quá trình phát triển.

HỒ QUANG PHƯƠNG

INTERNET KHÔNG PHẢI LÀ CÔNG CỤ KÍCH ĐỘNG HẬN THÙ, CHIA RẼ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ

Thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, các phương tiện truyền thông, đặc biệt là internet ngày càng trở thành phương tiện hữu ích đối với đời sống con người. Không chỉ góp phần bảo đảm tốt hơn quyền tự do ngôn luận, các phương tiện truyền thông hiện đại nói chung, internet nói riêng còn giúp các quốc gia trên thế giới thêm hiểu và ngày càng xích lại gần nhau hơn.
Thế nhưng những năm qua, nhất là thời gian gần đây, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những ưu thế của internet để gia tăng hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, cổ xúy cho tư tưởng phân biệt chủng tộc, kích động hận thù, phá hoại đoàn kết quốc tế.
Trên internet, các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội chính trị, phản động lập ra hàng nghìn website, trang mạng xã hội, diễn đàn trực tuyến... để sử dụng như một công cụ chủ yếu tuyên truyền, xuyên tạc, bịa đặt nhằm kích động hận thù, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, phá hoại mối quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, những sự kiện “nóng” thu hút sự quan tâm của dư luận, như: Dân tộc, tôn giáo; Biển Đông; phân giới cắm mốc giữa Việt Nam với các quốc gia láng giềng; ô nhiễm môi trường; phòng, chống tham nhũng v.v.. được các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng chống phá.
Còn nhớ, sau khi Hiệp ước về biên giới đất liền được ký kết (ngày 30-12-1999), Việt Nam và Trung Quốc đã cùng nhau phân giới cắm mốc trên thực địa. Đây là việc làm cần thiết và đã được Việt Nam và Trung Quốc thực hiện chặt chẽ, thỏa đáng, thấu tình đạt lý, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản, đáp ứng các yêu cầu đặt ra. Thế nhưng trong quá trình tiến hành, một số tổ chức, cá nhân phản động ở trong và ngoài nước qua internet đã tung ra hàng loạt những luận điệu xuyên tạc, thông tin trái chiều gây nhiễu loạn dư luận. Họ cho rằng “Trung Quốc giành được một số vùng lãnh thổ mà trước đó Việt Nam tuyên bố chủ quyền”. Có ý kiến cho rằng, trong phân giới, cắm mốc với Trung Quốc, Việt Nam “chịu nhiều thua thiệt”. Có kẻ còn dựng chuyện, bịa đặt rằng “Chính phủ Việt Nam nhường đất cho Trung Quốc”, “Việt Nam đã mất một phần lãnh thổ trong quá trình phân giới, cắm mốc với Trung Quốc”... Rồi từ những thông tin xuyên tạc, bịa đặt ấy, qua internet, họ kích động nhân dân Việt Nam “cần đòi lại bằng vũ lực...”. Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần khẳng định, những thông tin ấy là thất thiệt, vô căn cứ. Các thế lực thù địch, một số tổ chức, cá nhân phản động muốn lợi dụng sự kiện ấy để tuyên truyền xuyên tạc làm giảm sút niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng và Nhà nước Việt Nam, kích động bạo lực, gây chia rẽ mối quan hệ đoàn kết hữu nghị giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam-Trung Quốc.
Tương tự quá trình đàm phán thực hiện Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985 và Hiệp ước bổ sung năm 2005 về biên giới, phân giới, cắm mốc giữa Việt Nam và Campuchia đã và đang được tiến hành hoàn toàn hợp pháp, công khai, minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế. Thế nhưng lợi dụng một số vấn đề nảy sinh trong công tác phân giới, cắm mốc giữa Việt Nam và Campuchia, những người có tư tưởng thù địch, một số phần tử chống đối, cực đoan phản động đã qua internet tán phát thông tin, tuyên truyền xuyên tạc, kích động, lôi kéo những người dân thiếu thông tin và kiến thức về quá trình đàm phán, phân giới, cắm mốc giữa hai nước để tiến hành các hoạt động phá hoại. Trên mạng xã hội, chúng cho rằng Campuchia đã “cúi đầu quá nhanh” trước Việt Nam; “Việt Nam tạo áp lực với Campuchia”... Chưa hết, qua mạng xã hội, chúng còn vu cáo Việt Nam sử dụng bản đồ giả, ngụy tạo thông tin về đường biên giới với Campuchia... Từ những thông tin xuyên tạc, bịa đặt ấy chúng không nhằm mục đích nào khác là gây sự hiểu lầm, tạo hiềm khích dân tộc, gieo rắc những tư tưởng thù địch, hoài nghi về mối quan hệ tốt đẹp của hai dân tộc, hai Chính phủ và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia.
Hay trong sự cố môi trường biển ở các tỉnh miền Trung, ngay sau khi xảy ra sự việc, lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta đã chỉ đạo quyết liệt, triển khai kịp thời các biện pháp hỗ trợ, ổn định cuộc sống của người dân vùng bị thiệt hại... Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, các cơ quan khoa học khẩn trương vào cuộc với tinh thần thận trọng, khoa học, chính xác, khách quan và đúng pháp luật; xác định rõ nguyên nhân, đối tượng gây ra sự cố và có giải pháp xử lý kịp thời. Thế nhưng thông qua internet, với chiêu trò xuyên tạc, bịa đặt, cắt dán, gán ghép thông tin, các thế lực thù địch đã tạo nên sự nhiễu loạn trên truyền thông xã hội, làm cho thật giả, trắng đen lẫn lộn. Chúng vu cáo rằng, các cấp lãnh đạo “vì lợi ích nhóm mà bỏ quên môi trường”, “biết nguyên nhân gây ô nhiễm nhưng che giấu thông tin”, "bao che cho nhà thầu nước ngoài"... Chúng xuyên tạc chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, tuyên truyền, kích động người dân “tẩy chay” các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà thầu đến từ Trung Quốc và Đài Loan... Chưa dừng ở đó, chúng còn soạn ra cái gọi là "tâm thư”, “khuyến nghị”... gửi ra nước ngoài kêu gọi các tổ chức quốc tế can thiệp.
Trên đây chỉ là một vài ví dụ dẫn ra để thấy internet đang bị những đối tượng có tư tưởng thù địch, phản động triệt để sử dụng làm công cụ tuyên truyền kích động hận thù, chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước và các tổ chức quốc tế. Những hành động đó đã vi phạm pháp luật Việt Nam và công ước quốc tế.
"Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị" năm 1966 quy định rất rõ về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Khoản 2, Điều 19 của Công ước quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ”. Tuy nhiên, cần nhớ rằng những quyền ấy không phải là quyền tuyệt đối. Khoản 3, Điều 19 "Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị" năm 1966 ghi rõ: “Việc thực hiện những quyền quy định tại Khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc hưởng thụ quyền này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định (những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật) để tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội". Năm 1982, Việt Nam tham gia "Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị". Từ đó đến nay, Việt Nam luôn quan tâm nội luật hóa các quy định của công ước vào hệ thống pháp luật quốc gia.
Ở Việt Nam, quyền tự do ngôn luận, báo chí của người dân được quy định rất rõ. Tại Điều 25 của Hiến pháp năm 2013 nêu: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Điều 9, Luật Báo chí Việt Nam 2016 nghiêm cấm: “1. Đăng, phát thông tin chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nội dung: a) Xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền nhân dân; b) Bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; c) Gây chiến tranh tâm lý. 2. Đăng, phát thông tin có nội dung: a) Gây chia rẽ giữa các tầng lớp nhân dân, giữa nhân dân với chính quyền nhân dân, với lực lượng vũ trang nhân dân, với tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội; b) Gây hằn thù, kỳ thị, chia rẽ, ly khai dân tộc, xâm phạm quyền bình đẳng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; c) Gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người theo các tôn giáo khác nhau, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với chính quyền nhân dân, với tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội; xúc phạm niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; d) Phá hoại việc thực hiện chính sách đoàn kết quốc tế”. Những quy định ấy đều tương thích với "Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị".
Trên thế giới, không một quốc gia nào dung túng, bao che cho những hành động sử dụng internet làm công cụ để xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và tạo mọi điều kiện để người dân thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do internet trên cơ sở tuân thủ công ước quốc tế và pháp luật Việt Nam. Chính phủ Việt Nam luôn chủ động phối hợp, tích cực hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế để đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin, phát triển internet và các phương tiện truyền thông hiện đại. Nhưng Việt Nam cũng làm hết sức mình để ngăn chặn thông tin xấu độc, thông tin vi phạm pháp luật Việt Nam và công ước quốc tế. Việt Nam luôn mong muốn chung tay với các nước, các tổ chức quốc tế xây dựng môi trường internet lành mạnh, an toàn, hữu ích ở Việt Nam và toàn cầu. Cũng như mọi quốc gia trên thế giới, Việt Nam lên án mạnh mẽ, đấu tranh kiên quyết, không cho phép bất kỳ ai được lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do internet để tán phát những thông tin xuyên tạc, bịa đặt, những luận điệu thù hận, phỉ báng, kích động có thể gây căng thẳng, gây chia rẽ đoàn kết và đưa đến xung đột. Mọi hành vi vi phạm trong lĩnh vực sử dụng internet và phương tiện truyền thông đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật.
SONG HÙNG



Thứ Ba, 24 tháng 10, 2017

LỢI DỤNG DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN - HAI MŨI TẤN CÔNG NGUY HIỂM

Thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam, dân chủ, nhân quyền luôn là hai vấn đề chiến lược được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự xã hội (ANCT-TTXH), tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tạo sức ép từ bên ngoài, dựng “ngọn cờ” từ bên trong
Sử dụng hai chiêu bài này, các thế lực thù địch tiến hành rất nhiều thủ đoạn nguy hiểm. Trước hết, họ vu cáo, xuyên tạc, bóp méo tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, ra sức tuyên truyền, cổ súy cho dân chủ tư sản phương Tây. Họ cho rằng, chế độ xã hội ở Việt Nam là độc tài, toàn trị. Họ lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, sơ hở, thiếu sót của ta trong quản lý, điều hành đất nước hoặc những vấn đề bức xúc trong xã hội để lôi kéo, kích động nhân dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất ANCT-TTXH. Họ ra sức tuyên truyền, cổ vũ, cường điệu hóa các giá trị dân chủ tư sản, tuyệt đối hóa tính toàn cầu, tính phổ cập của quyền con người với luận điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích cộng đồng, quốc gia”, tuyệt đối hóa các giá trị phổ quát về quyền con người theo mô hình của phương Tây; xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm quyền cơ bản của con người, đàn áp “những người bất đồng chính kiến” v.v..  Từ chỗ cho rằng, quyền con người là tuyệt đối, bất biến, các thế lực thù địch đã giải thích nhân quyền là tự do thực hiện quyền mà không bị cấm đoán, không bị giới hạn nhằm cổ suý hoạt động lợi dụng nhân quyền vi phạm pháp luật nước ta. Họ đặc biệt đẩy mạnh các chiến dịch phá hoại tư tưởng khi nước ta diễn ra những sự kiện chính trị quan trọng hay khi Việt Nam tham gia các hội nghị quan trọng của Liên hợp quốc hòng hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.
Họ dùng dân chủ, nhân quyền làm điều kiện để gây sức ép, can thiệp vào nội bộ nước ta. Họ tìm cách gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với các điều kiện về dân chủ, nhân quyền trong quan hệ ngoại giao với Việt Nam; đòi nước ta phải chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cải cách chính trị, cải cách dân chủ, pháp luật theo kiểu phương Tây. Thông qua các buổi điều trần, họp báo, hội thảo của Quốc hội Mỹ, các nước châu Âu để gây sức ép buộc Việt Nam phải có những “tiến bộ cụ thể về nhân quyền, tôn giáo”. Thông qua các diễn đàn công khai như hội thảo, hội nghị khoa học, những buổi tiếp xúc, đối thoại với các cơ quan chức năng của Việt Nam, họ yêu cầu ta phải đưa ra các lộ trình thực hiện các điều ước quốc tế về dân chủ, nhân quyền, thành lập Tòa án Hiến pháp ở nước ta. Họ còn gửi thư, bản kiến nghị tới Liên hợp quốc, Quốc hội, Chính phủ các nước, lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta để phản đối việc chính quyền bắt giữ, xét xử một số đối tượng chống đối trong nước, đòi trả tự do cho cái gọi là “tù nhân lương tâm”. Lợi dụng việc chính quyền đấu tranh, xử lý số đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị vi phạm pháp luật, họ đã tạo cớ, vu cáo chính quyền vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp người “bất đồng chính kiến” và những người “yêu nước”, kêu gọi sự can thiệp của cộng đồng quốc tế.
Họ dùng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để thúc đẩy, hình thành hội, nhóm, tổ chức chính trị đối lập với Nhà nước. Họ xuyên tạc rằng, chế độ độc đảng ở Việt Nam là trở ngại lớn nhất trong quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam, muốn có dân chủ thực sự thì Việt Nam nên xóa bỏ chế độ độc đảng. Thông qua đó, họ tập hợp lực lượng hình thành các tổ chức dưới danh nghĩa “bảo vệ dân chủ, nhân quyền”, “yêu nước” như: “Hội phụ nữ nhân quyền”,“Nhóm công dân tự do”, “Nhóm tuổi trẻ yêu nước”... Họ thúc đẩy sự ra đời của các khuynh hướng dân chủ cực đoan, phát triển “xã hội dân sự”, hình thành các tổ chức chính trị, hội nhóm bất hợp pháp; tạo dựng ngọn cờ tập hợp lực lượng chống phá từ bên trong. Họ còn tuyên truyền, vận động số người có biểu hiện cơ hội, bất mãn ký tên vào kiến nghị, tuyên bố… nhằm đưa ra yêu sách “dân chủ, nhân quyền”, “bảo vệ chủ quyền”… Họ còn vận động các tổ chức quốc tế trao “giải thưởng nhân quyền” cho các đối tượng bất đồng chính kiến, hay những đối tượng vi phạm pháp luật bị ta bắt, xử lý ở trong nước… nhằm cổ súy, khích lệ số đối tượng trong nước hoạt động quyết liệt, tích cực hơn.
Các thế lực thù địch triệt để tác động Quốc hội Mỹ, EU và các nước phương Tây thông qua các dự luật, nghị quyết, báo cáo thường niên... với nội dung xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo nhằm làm cho cộng đồng quốc tế hiểu không đúng tình hình trong nước, điển hình như: Báo cáo Tự do tôn giáo quốc tế của Bộ Ngoại giao Mỹ; Báo cáo tình hình nhân quyền thế giới hằng năm của Anh, Úc; Nghị quyết của Nghị viện châu Âu... Trong đó, chỉ riêng Hạ viện Mỹ hằng năm đã liên tục thông qua nhiều dự luật, nghị quyết về tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Báo cáo thường niên của các tổ chức quốc tế, như: Tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW), Tổ chức Ân xá Quốc tế (AI); Nhà Tự do (FH), Ủy ban bảo vệ nhà báo (CPJ)... mặc dù phải thừa nhận Việt Nam có “chuyển biến tích cực” về dân chủ, nhân quyền nhưng vẫn xuyên tạc Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền. Họ còn tìm cách thông qua các chính khách cực đoan tác động đưa Việt Nam trở lại danh sách “các nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo” (CPC) để áp dụng các biện pháp “trừng phạt” đối với nước ta.
Để đẩy lùi hai mũi tiến công nguy hiểm
Trong những năm tới, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, việc lợi dụng dân chủ, nhân quyền vẫn là chiêu bài được các thế lực bên ngoài triệt để lợi dụng nhằm gây mất ổn định, can thiệp sâu vào nội bộ của ta. Để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động này, thời gian tới, cần thực hiện tốt những vấn đề sau: 
Một là, công tác phòng, chống hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội nước ta luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng; sự quản lý, điều hành của Chính phủ nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn làm thất bại âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo chống phá Việt Nam từ cấp cơ sở. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò công tác bảo vệ và đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn hoạt động lợi dụng nhân quyền chống phá ta, coi đó là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành và nhân dân để huy động sự tham gia của cả xã hội trong công tác này.
Hai là, tiếp tục tham mưu cho Đảng, Nhà nước xây dựng và hoàn thiện các chính sách, văn bản pháp luật nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người đi đôi với việc kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, phát huy quyền dân chủ của nhân dân trên cơ sở pháp luật. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các phong trào thi đua yêu nước ở địa phương, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở bảo đảm thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo ở địa phương. Tăng cường công tác quản lý báo chí, xuất bản; kiểm soát chặt chẽ an ninh thông tin, quản lý internet, tích cực đấu tranh ngăn chặn việc tán phát tài liệu, tin tức xuyên tạc, thù địch về dân chủ, nhân quyền ở nước ta. 
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền chính sách, thành tựu bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền đối nội và tuyên truyền đối ngoại; tận dụng thế mạnh của các kênh ngoại giao, đối thoại, hợp tác làm cho cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài hiểu đúng quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thành tựu đã đạt được trong bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, góp phần đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp dân tộc, tôn giáo hòng can thiệp nội bộ nước ta.
Bốn là, chủ động triển khai nắm tình hình, dự báo kịp thời mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch để triển khai những biện pháp phòng ngừa, đấu tranh. Kịp thời phát hiện, phối hợp giải quyết dứt điểm các mâu thuẫn, khiếu kiện, “điểm nóng” ngay từ cơ sở, không để kéo dài, không lây lan, vượt cấp. Trong xử lý các vấn đề nhạy cảm về dân chủ, nhân quyền phải tính toán, cân nhắc thời điểm phù hợp, bảo đảm yêu cầu chính trị, pháp luật, đối ngoại theo hướng kiên định về nguyên tắc nhưng khôn khéo, linh hoạt về phương pháp, tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước và cộng đồng quốc tế, kiên quyết không làm phức tạp thêm tình hình, không sơ hở để địch lợi dụng vu cáo, xuyên tạc.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo… kết hợp với thực hiện công bằng xã hội, không ngừng nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo nhằm góp phần bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của người dân trên cơ sở pháp luật; tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh bảo đảm ổn định ANCT-TTXH. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế và các khuyến nghị về nhân quyền mà Việt Nam đã chấp thuận. Tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực nhân quyền với các quốc gia, tổ chức quốc tế quan tâm vấn đề này ở nước ta.
ĐỨC QUỲNH


"TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA" VỀ ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG

Hiện nay ở nước ta hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về đạo đức, lối sống đang diễn ra và được biểu hiện ở nhiều mức độ. Biểu hiện đầu tiên của những người “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về đạo đức, lối sống là nhìn nhận đạo đức, lối sống có sự sai lệch, chỉ thấy mặt tiêu cực, mặt xấu mà không thấy mặt tích cực, không thấy những giá trị đạo đức, lối sống tốt đẹp của dân tộc, của cách mạng.
Những người có tư tưởng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về đạo đức, lối sống thường là những người thiếu tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức, lối sống, nên dần bị tha hóa, bị cái xấu lấn lướt những cái tích cực trong con người mình. Đại hội lần thứ XII của Đảng đã nhận định: “Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên”. Đó chính là sự yếu kém, mất dần cái tốt, cái tiến bộ, làm tăng dần cái xấu, cái lạc hậu, làm chậm lại quá trình phát triển và dẫn đến sự thoái hóa, biến chất của chính bản thân con người và tổ chức.
Suy thoái về đạo đức, lối sống còn biểu hiện ở việc du nhập lối sống tư sản thực dụng, sống buông thả, ngại học tập, phấn đấu, rèn luyện. Có một bộ phận sa vào tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, sử dụng ma túy, buôn lậu… và tha hóa về quan hệ gia đình, quan hệ xã hội. Những người này thường không còn nhiệt huyết cách mạng, tính tích cực bị giảm sút, phẩm chất cách mạng bị xói mòn. Những cán bộ, đảng viên có quyền lực mà rơi vào “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về đạo đức, lối sống ngoài việc ngại rèn luyện, lười suy nghĩ, lười học tập… họ còn hình thành những “cơ chế ngầm”, tạo “cánh hẩu” để bảo vệ, bao che cho nhau, trù dập những người thẳng thắn, có thái độ đấu tranh phê bình. Họ du nhập, bắt chước lối sống tư sản, coi đó là “lẽ sống của thời đại”, trong khi đó họ lại coi thường lẽ phải, đạo lý.
Suy thoái về đạo đức, lối sống tất dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị. Ở mức độ này có thể gọi là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trầm trọng. Họ rất có thể sẽ chuyển hóa thành đối tượng phản động, chống lại Tổ quốc, chống lại Đảng, chế độ và nhân dân. Thực tế hiện nay đã có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên bị thoái hóa về đạo đức, lối sống, đúng như Hội nghị Trung ương lần thứ tư (khóa XII) nhận định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”. Đây là sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” rất nguy hiểm về đạo đức, lối sống ở nước ta hiện nay, nên cần phải nhận diễn cho rõ và đấu tranh, chấn chỉnh, loại bỏ.
TRẦN THÔN


Thứ Ba, 19 tháng 9, 2017

VAI TRÒ CỦA LIÊN HỢP QUỐC VÀ 40 NĂM ĐỒNG HÀNH CỦA VIỆT NAM

1. Vai trò và đóng góp của Liên hợp quốc đối với hòa bình, an ninh và tiến bộ của nhân loại
Ngày 24-10-1945, Liên hợp quốc ra đời là một bước ngoặt trong lịch sử thế giới, mang lại những biến đổi to lớn cho hòa bình và tiến bộ chung của nhân loại. Sứ mệnh cao cả của Liên hợp quốc đã được nêu rõ ngay tại những dòng đầu tiên của Hiến chương, đó là: “quyết tâm cứu những thế hệ tương lai khỏi thảm họa chiến tranh đã hai lần trong đời gieo rắc đau thương không thể kể xiết cho nhân loại”.
Hơn 70 năm qua, có thể nói, Liên hợp quốc đã thực hiện thành công được sứ mệnh của mình, được cộng đồng quốc tế thừa nhận là tổ chức toàn cầu có uy tín cao, quy mô rộng lớn nhất, luôn giữ vai trò hàng đầu trong ngăn ngừa, giải quyết các cuộc xung đột, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, duy trì hòa bình và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên cả ba trụ cột: hòa bình - an ninh, phát triển và bảo đảm quyền con người. Bên cạnh đó, Liên hợp quốc đã đảm nhiệm ngày càng tốt hơn vai trò trung tâm trong xây dựng hệ thống các quy định, chuẩn mực của luật pháp quốc tế trên các lĩnh vực; thúc đẩy giải quyết các thách thức toàn cầu; các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo; hỗ trợ phát triển cho các nước nghèo và kém phát triển.
2. Sự đồng hành của Việt Nam trong 40 năm gia nhập Liên hợp quốc
Ngay từ những ngày đầu lập nước, Việt Nam đã coi trọng và nhận thức rõ tầm quan trọng của Liên hợp quốc và bày tỏ nguyện vọng gia nhập tổ chức này. Điều đó đã được thể hiện qua bức điện văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa đầu tiên vào ngày 14-01-1946. Song, do hoàn cảnh lịch sử, phải đến ngày 20-9-1977 (hơn 30 năm sau), Việt Nam mới chính thức trở thành thành viên của Liên hợp quốc.
Tuy vậy, về thực chất, cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước của nhân dân ta chính là đóng góp có ý nghĩa nhất của Việt Nam cho sứ mệnh của Liên hợp quốc ngay từ lúc chưa là thành viên của tổ chức này. Bởi lẽ, cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta đã góp phần thực hiện các mục tiêu và lý tưởng cao cả của Liên hợp quốc là hòa bình, tôn trọng nguyên tắc bình đẳng, quyền tự quyết của các dân tộc, độc lập chủ quyền và tiến bộ xã hội.
Trong 40 năm qua, Việt Nam luôn nhận được sự hỗ trợ quý báu, hợp tác có hiệu quả của Liên hợp quốc đối với công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, góp phần giải quyết hậu quả chiến tranh và phá thế bao vây, cấm vận. Trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự hợp tác trợ giúp về kỹ thuật, vốn, kinh nghiệm của Liên hợp quốc là một trong những nguồn lực quan trọng, giúp Việt Nam nâng cao năng lực thể chế luật pháp, cải cách hành chính, xóa đói giảm nghèo, ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, v.v.
Về phần mình, kể từ khi gia nhập Liên hợp quốc, Việt Nam đã tham gia ngày càng sâu rộng, thực chất và trở thành một thành viên tích cực, có trách nhiệm, đối tác quan trọng của Liên hợp quốc; quan hệ hợp tác với Liên hợp quốc ngày càng mở rộng theo hướng thiết thực, hiệu quả và được thể hiện một cách khái quát ở một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, chúng ta đã chủ động, tích cực tham gia các nỗ lực chung nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, đặc biệt là đề cao các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc. Qua đó, góp phần bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam. Việt Nam cũng tích cực tham gia đóng góp xây dựng các cơ chế hợp tác, luật lệ, chuẩn mực chung nhằm xây dựng các mối quan hệ quốc tế công bằng, bình đẳng, bảo đảm lợi ích chính đáng của các nước, nhất là các nước đang phát triển.
Thứ hai, Việt Nam đã được các nước, bạn bè tín nhiệm bầu vào nhiều vị trí, cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc và có nhiều đóng góp ý nghĩa tại các cơ quan này, như: Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009, thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016. Đặc biệt, từ năm 2014, Việt Nam đã cử lực lượng tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, thể hiện trách nhiệm của mình trong việc gìn giữ hòa bình, an ninh quốc tế.
Thứ ba, Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách của Liên hợp quốc về phát triển; trong đó, có việc thực hiện thành công trước thời hạn các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ và quyết tâm thực hiện Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững và Thỏa thuận Pa-ri về biến đổi khí hậu toàn cầu. Việt Nam cũng tích cực thúc đẩy các sáng kiến cải tổ Liên hợp quốc, đặc biệt là quốc gia đi đầu triển khai sáng kiến “Thống nhất hành động” của Liên hợp quốc, nhằm tăng hiệu quả hoạt động của Liên hợp quốc ở cấp độ quốc gia.
Tựu chung lại, trong 40 năm đồng hành cùng Liên hợp quốc, Việt Nam đã đóng góp vào thành tích chung của công tác đối ngoại, đặc biệt đã góp phần bảo vệ - thúc đẩy lợi ích quốc gia - dân tộc, nhất là duy trì, củng cố môi trường hòa bình, an ninh và tạo thuận lợi cho phát triển đất nước; thúc đẩy hội nhập quốc tế sâu rộng hơn và góp phần nâng cao vị thế, hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế./
  PHẠM BÌNH MINH, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao


Thứ Ba, 15 tháng 8, 2017

Đằng sau chiêu trò “chính trị hóa” các vụ án hình sự

Một trong những chiêu trò mà các thế lực thù địch thường áp dụng khi thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” là “chính trị hóa” các vụ án hình sự. Từ những vụ án đơn lẻ, các thế lực thù địch thổi phồng, xuyên tạc, suy diễn lái vụ việc sang hướng khác rồi quy kết thành những vấn đề chính trị của từng quốc gia. Tình hình chống phá của các thế lực thù địch, phản động đối với Việt Nam thời gian gần đây càng cho thấy rõ điều đó.
Một điều chúng ta không khó để nhận ra trong thời gian qua là các thế lực thù địch cùng những phần tử cơ hội chính trị, phản động trong và ngoài nước đã “chính trị hóa” một số vụ án hình sự bằng cách đơm đặt, dựng chuyện, xuyên tạc, suy diễn, cắt khúc, gán ghép các tình tiết trong vụ án với những vấn đề chính trị hệ trọng của đất nước, nhất là những vấn đề nóng, nhạy cảm trong xã hội để lợi dụng kích động, chống phá. Chẳng hạn như sự việc ở xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Công an TP Hà Nội đã khởi tố vụ án hình sự để điều tra làm rõ về tội “Bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật” theo Điều 123, Bộ luật Hình sự và tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” theo Điều 143, Bộ luật Hình sự. Đây thực chất chỉ là một vụ án hình sự đơn lẻ, nhưng những kẻ “ăn không nói có” đã lượm lặt thông tin trên internet để nhào nặn rồi phán bừa rằng “vụ khởi tố này là bằng chứng cho thấy một sự đấu đá ở hậu trường”... Rõ ràng họ đã lợi dụng vụ án hình sự đơn thuần để đơm đặt rồi lái sang câu chuyện “đoàn kết nội bộ” trong Đảng, trong chính quyền... Mục tiêu sâu xa mà các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội chính trị, phản động hướng tới không gì khác là gây ra sự hoài nghi trong nội bộ, phá hoại sự đồng thuận trong xã hội, chia rẽ cán bộ, đảng viên với quần chúng nhân dân.
Hay từ sự việc một số phần tử xấu ở các tỉnh: Nghệ An, Hà Tĩnh... núp dưới vỏ bọc “tôn giáo” lợi dụng sự cố môi trường ở các tỉnh miền Trung kích động, lôi kéo một bộ phận giáo dân tụ tập đông người, gây rối an ninh trật tự... Xét thấy có những yếu tố cấu thành tội phạm, cơ quan chức năng các địa phương đã khởi tố vụ án để điều tra xử lý theo quy định của pháp luật. Thực chất đây chỉ là vụ án hình sự về tội “Gây rối trật tự công cộng”... Thế nhưng thông qua một số trang mạng ở nước ngoài, các thế lực thù địch, những phần tử phản động đã "chính trị hóa" vụ việc này rồi lái câu chuyện sang vấn đề "dân chủ, nhân quyền" và cho rằng “Việt Nam đàn áp tôn giáo”, “Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo”...
Tương tự mới đây là vụ Lê Duy Phong, Báo điện tử Giáo dục Việt Nam, bị Công an TP Yên Bái khởi tố, bắt tạm giam để điều tra về hành vi "lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản", theo Điều 280, Bộ luật Hình sự... Thế nhưng trên một vài trang mạng, một số phần tử phản động, có tư tưởng thù địch đã xuyên tạc, suy diễn, quy chụp theo kiểu lấy cái cụ thể để đánh giá, kết luận về cái tổng thể và cho rằng "Việt Nam vi phạm tự do báo chí", chính quyền Việt Nam "gài bẫy" để đưa các nhà báo chống tham nhũng vào vòng lao lý. Hơn thế, từ sự việc này họ còn suy diễn, xuyên tạc, bóp méo quan điểm của Đảng ta về cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng; xuyên tạc thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta. Không chỉ vậy, họ còn cho rằng: “Cuộc chiến chống tham nhũng là cuộc đấu đá phe cánh”, “tăng cường phòng, chống tham nhũng chỉ là chiêu trò mị dân”; có sự “bao che, dung túng, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng” của cấp ủy, chính quyền các cấp.... Nguy hiểm hơn, họ còn chụp mũ cho rằng tham nhũng thuộc về bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là hệ quả của cơ chế lãnh đạo độc tôn.
Cần khẳng định một vài vụ việc nêu ra trên đây chỉ là những vụ án hình sự bình thường. Tuy nhiên, thông qua những bài viết trên một số trang mạng của những người có tư tưởng cực đoan, phản động đã xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo làm sai lệch bản chất vấn đề, hướng lái dư luận sang những vấn đề chính trị, xã hội hệ trọng khác như: Tự do tôn giáo, tự do báo chí, đoàn kết nội bộ... hòng triệt để khoét sâu từng vụ việc từ đó chống phá Đảng, chống phá chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Mục tiêu sâu xa của họ vẫn là nhằm phủ nhận những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trên các lĩnh vực, vẽ ra bức tranh méo mó về xã hội Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, để từ đó gieo rắc sự hoài nghi trong nhân dân về vai trò lãnh đạo của Đảng; về khả năng quản lý, điều hành của chính quyền, làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa, để rồi thừa cơ xúi giục, kích động những người dân nhẹ dạ, cả tin đứng lên chống lại chính quyền, đòi thay đổi cương lĩnh, thể chế chính trị, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi chuyển xã hội ta sang một xã hội “đa nguyên, đa đảng”.
Từ những vấn đề lý luận chỉ ra và thực tiễn kiểm chứng, rõ ràng chúng ta không thể lấy hiện tượng để quy kết thành bản chất, không thể dùng cái đơn lẻ để quy thành hệ thống. Ấy vậy mà từ những vụ án hình sự đơn lẻ, các thế lực thù địch sẵn sàng suy diễn, gán ghép, quy chụp để từ đó đưa ra những nhận định về những vấn đề chính trị lớn trong xã hội, ảnh hưởng đến lợi ích của quốc gia, dân tộc. Chúng ta không lạ gì với chiêu trò này, bởi suy diễn, quy kết chủ quan, phiến diện trở thành thói quen, trở thành "căn bệnh" của các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội chính trị, phản động. Mọi sự việc, mọi vấn đề họ đều có thể suy diễn, chụp mũ miễn sao đạt được mục tiêu tuyên truyền xuyên tạc, nói xấu, chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, bên cạnh những thành tựu, không một quốc gia, dân tộc nào không có những vấn đề phức tạp nảy sinh. Việt Nam không phải là ngoại lệ. Trong quá trình lãnh đạo, quản lý điều hành đất nước, bên cạnh những thành quả đạt được, Đảng và Nhà nước Việt Nam không phủ nhận trong xã hội đã và đang tồn tại những vấn đề nổi cộm. Để giải quyết những vấn đề đó nhằm củng cố niềm tin trong nhân dân, Đảng, Nhà nước đã, đang và sẽ tiếp tục triển khai nhiều biện pháp đồng bộ, quyết liệt; đồng thời cũng kiên quyết lên án, đấu tranh không để các thế lực thù địch lợi dụng những vấn đề ấy để tiến hành các chiêu trò nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam.
Bản chất của chiêu trò “chính trị hóa” các vụ án hình sự nhằm chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch ngày càng hiện rõ. Thực tế cho thấy các thế lực thù địch luôn tận dụng triệt để mọi cơ hội có thể để thực hiện chiêu trò "chính trị hóa" các vụ án hình sự. Cho dù chiêu trò đó phần nào chứng tỏ sự bất lực của các thế lực thù địch trước thực tiễn sinh động của đất nước Việt Nam, nhưng cần phải thấy rõ đây là một âm mưu chính trị và hoạt động chống phá hết sức nguy hiểm. Mỗi người Việt Nam chân chính ở cả trong và ngoài nước cần nhận thức rõ về chiêu trò này và kiên quyết lật tẩy, đấu tranh, phản bác. Mặt khác mọi người dân cần tỉnh táo, đề cao cảnh giác, không ngộ nhận trước chiêu trò ấy, không tin vào luận điệu xuyên tạc, suy diễn, quy chụp của những phần tử cơ hội chính trị, phản động cực đoan; không tiếp tay cho các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

KIM THANH

Cảnh giác và kiên quyết đấu tranh loại bỏ những thông tin xấu độc nhằm vào cán bộ cấp cao của Quân đội nhân dân

Chống phá, làm giảm uy tín, vị thế của Quân đội ta luôn là mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Một trong những thủ đoạn của họ là tạo thông tin giả mạo, mượn danh nghĩa người khác, mạo danh để bôi nhọ danh dự, uy tín của cán bộ cấp cao, nguyên là cán bộ cấp cao của Quân đội nhân dân Việt Nam. Cần cảnh giác, đấu tranh loại bỏ các loại thông tin rác rưởi này!
Bôi nhọ danh dự, hạ thấp uy tín của Quân đội, cán bộ quân đội là thủ đoạn không mới, nhưng gần đây lại xuất hiện với tần suất cao một cách bất bình thường. Mới đây, trên một số trang mạng “lề trái” xuất hiện bức thư được cho là của Thiếu tướng Huỳnh Hương (tức Huỳnh Đắc Hương), nguyên Cục trưởng Cục Tổ chức, Tổng cục Chính trị gửi Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ. Bức thư đề cập một số nội dung xuyên tạc, sai lệch, nhằm bôi nhọ danh dự, hạ uy tín của lãnh đạo Bộ Quốc phòng. Cơ quan chức năng đã gặp gỡ, trao đổi với Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương về nội dung liên quan đến bức thư. Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương khẳng định rằng: là thế hệ đi trước, cả đời theo cách mạng, sống, chiến đấu và trưởng thành trong môi trường Quân đội, tôi luôn tin tưởng Quân đội. Đến lúc cơ quan chức năng đưa bức thư ra thì Ông mới biết có bức thư như thế và khẳng định: đã lâu, không viết bất cứ bức thư nào và chữ ký ở bức thư đó là giả mạo chữ ký của Ông. Ông nhấn mạnh thêm, nay đã nhiều tuổi, sức khỏe giảm sút, mắt kém và không biết sử dụng in-tơ-nét. Ông bày tỏ mong muốn các cơ quan chức năng sớm tìm ra người viết bức thư đã giả mạo tên và chữ ký của mình. Như vậy, trắng đen đã rõ, người ta đã giả mạo tên Ông, hòng lợi dụng uy tín cá nhân Ông để nói xấu lãnh đạo Bộ Quốc phòng.
Trò giả mạo chữ ký cán bộ cấp cao của Quân đội đã nghỉ hưu để “tham gia”, hoặc bày tỏ thái độ “băn khoăn” trước tình hình đất nước, những vấn đề nảy sinh trong sự nghiệp xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc dưới dạng “thư ngỏ” hay “kiến nghị” gửi lãnh đạo Đảng, Nhà nước là một thủ đoạn hèn hạ của những kẻ thù địch đối với Việt Nam. Thủ đoạn này không phải là mới, trước đây, chúng đã từng làm. Nhưng điểm khác là ở chỗ, những “thư ngỏ”, “kiến nghị” trước, có nhiều người cùng ký tên, còn nay chỉ cần một người có tên tuổi, uy tín và Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương được họ lựa chọn để giả mạo là như vậy. Phải chăng họ làm việc vô đạo đức này là do nắm bắt được tâm lý của nhân dân luôn tin tưởng vào bản chất, truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” - Bộ đội của dân? Đặc biệt nếu có tên của những cán bộ cao cấp trong Quân đội, nhất là cán bộ cấp tướng có uy tín thì rõ ràng càng tăng thêm sức nặng của “thư ngỏ”, “kiến nghị”. Thông qua việc mạo danh để xuyên tạc, nói xấu cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và Quân đội, họ hòng đánh lừa dư luận, thực chất là mê hoặc, “đánh cắp” niềm tin của nhân dân vào cán bộ của Đảng, Quân đội, tạo tâm lý hoài nghi, giao động, thiếu tin tưởng vào Đảng, Nhà nước và Quân đội, làm nóng dư luận xã hội. Đáng tiếc là một số ít người do thiếu thông tin chính thống nên đã nhẹ dạ, cả tin vào những thông tin xấu độc đó, gây ảnh hưởng không tốt trong dư luận xã hội. Tuy nhiên, sự thật luôn là sự thật, sự thật là chân lý lịch sử. Những kẻ dùng trò xuyên tạc sự thật chỉ có thể lừa bịp được một số người trong thời điểm nhất định, còn về lâu dài vẫn sẽ là “trắng ra trắng, đen ra đen”, không thể “đồng thau lẫn lộn” mãi được.
Lịch sử đã phát xét những hành động “ngậm máu phun người”, “ném đá giấu tay” của kẻ tiểu nhân, vô đạo đức, bất chấp mọi thủ đoạn hòng đạt được mục đích chính trị. Những kẻ nêu ở trên lại đang theo vết xe đổ đó, cố tình vi phạm pháp luật, cần phải lên án, nghiêm trị.
Nhân đây cũng cần nói rõ thêm, trong lịch sử của Quân đội ta từ cán bộ quân sự chuyển sang làm cán bộ chính trị, hoặc từ cán bộ chính trị sang làm cán bộ quân sự không phải không có tiền lệ. Điều đó diễn ra ở mọi cấp của các đơn vị quân đội, từ đơn vị cơ sở đến cấp chiến lược. Căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ và phẩm chất, năng lực của mỗi người, thì việc luân chuyển cán bộ để họ được khẳng định khả năng của mình trên các lĩnh vực công tác ở các cấp trong toàn quân được làm thường xuyên, tiến hành theo đúng nguyên tắc, quy chế, quy trình công tác cán bộ, những ai trong quân ngũ đều thấy rõ điều đó. Ở cấp chiến dịch, chiến lược gần đây, là Đồng chí Lê Văn Dũng từ Tư lệnh Quân khu 7 (năm 1995 - 1998) trở thành Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (năm 1998) và trở thành Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tổng Tham mưu trưởng (năm 1998 - 2001) sang làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam (năm 2001 đến năm 2011) và được thăng hàm Đại tướng năm 2007. Đồng chí Phương Minh Hòa từ Chính ủy Quân chủng Phòng không - Không quân (năm 2005) sang làm Tư lệnh Quân chủng này (năm 2010), trở thành Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam năm 2015 và được thăng hàm Thượng tướng. Không ít đồng chí từ cán bộ lực lượng vũ trang phát triển thành cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội. Đó là trường hợp Đại tướng Lê Đức Anh từ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Đại tướng Trần Đại Quang từ Bộ trưởng Bộ Công an trở thành Chủ tịch nước thứ tư và thứ tám của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thượng tướng Lê Khả Phiêu từ Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam từ 1991 - 1997, trở thành Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1997 - 2001, v.v. 
Ngược dòng lịch sử của dân tộc cho thấy, thế hệ cán bộ đầu tiên của cách mạng nước ta đâu có được đào tạo cơ bản qua trường lớp chính quy, phần lớn chỉ qua các lớp bồi dưỡng ngắn ngày, thế mà lãnh đạo nhân dân làm nên Cách mạng Tháng Tám (năm 1945) vĩ đại. Tiếp đó, các thế hệ cán bộ trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược tuy được đào tạo qua trường lớp có khá hơn trước, nhưng không thật nhiều, vậy mà đã cùng với nhân dân ta, dân tộc ta làm nên những chiến thắng vĩ đại, như:  Điện Biên Phủ năm 1954, Đại thắng mùa Xuân 1975, hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. “Thời thế tạo anh hùng”, trong thời kỳ này, nhiều cán bộ quân đội đã trở thành tướng lĩnh tài ba. Vị Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang nhân dân - Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một điển hình. Đại tướng xuất thân từ thầy giáo dạy lịch sử, chứ đâu có phải là nhà quân sự, nhưng khi được Bác Hồ cử sang phụ trách Quân đội ta với tài năng thiên bẩm và trải nghiệm thực tiễn cách mạng phong phú Đồng chí đã trở thành vị tướng mưu lược, quyết đoán, chỉ huy toàn quân đánh bại những tên thực dân, đế quốc sừng sỏ nhất là Pháp và Mỹ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp trở thành huyền thoại và là người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam, vị tướng có uy tín, tầm ảnh hưởng lớn đối với nhân dân ta và bạn bè trên thế giới. Nói vậy để thấy rằng, học qua trường lớp là điều rất quan trọng, nhưng nhường thế là chưa đủ mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, nhất là khả năng tư duy, tự nghiên cứu, học tập, rèn luyện theo cương vị công tác của mỗi người. Hay nói cách khác, dù được đào tạo cơ bản, nhưng thiếu tư duy chiến lược, tầm nhìn hạn chế thì người đó khó mà lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn hiệu quả. Trên thế giới cũng như ở nước ta cho đến nay chưa có, đúng hơn không nhất thiết phải có trường lớp đào tạo người chủ trì cho một ngành, một lĩnh vực hay đào tạo nguyên thủ quốc gia. Thực tế chỉ có các trung tâm đào tạo cán bộ cấp chiến lược, trong số đó có người sau khi đào tạo, công tác, phát triển thành cán bộ chủ trì một ngành, một lĩnh vực và số rất ít là nguyên thủ quốc gia. Điều khẳng định, việc sắp xếp, bố trí sử dụng cán bộ chiến lược của Đảng ta được thực hiện chặt chẽ, cẩn trọng theo quy trình, quy định nghiêm ngặt, thống nhất, tập thể cấp ủy thảo luận, xem xét toàn diện, nhiều chiều để lựa chọn cán bộ một cách chính xác nhất vào từng vị trí. Về tổng thể, không có chuyện bố trí, sắp xếp cán bộ một cách tùy tiện, thiếu căn cứ. Vậy nên, việc có ý kiến không đồng tình với quyết định của Bộ Chính trị phân công một cán bộ nào đó đảm nhiệm chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị, nhất là vị trí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là hoàn toàn không có cơ sở.
Việc có “bức thư” mạo danh Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương để nói một số vấn đề về Bộ trưởng Bộ Quốc phòng được lan truyền trên không gian mạng thời gian qua cũng nằm trong “kịch bản” chống phá Quân đội đã được dàn dựng, chuẩn bị từ trước. Hẳn mọi người không lạ gì thủ đoạn đê hèn đó. Bởi, mưu đồ sâu xa của chúng là chống Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa. Mà muốn làm được điều đó thì việc chống phá Quân đội được chúng xác định là mục tiêu quan trọng hàng đầu, nhằm chia rẽ Đảng với Quân đội, tạo mâu thuẫn nội bộ, chia rẽ tình cảm quân - dân, gây tâm lý hoài nghi, thiếu tin tưởng của cán bộ, chiến sĩ vào lãnh đạo Bộ Quốc phòng, làm suy yếu sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta.
Vì vậy, cần phải cảnh giác và kiên quyết đấu tranh loại bỏ loại thông tin thất thiệt, xấu độc này, nhằm giữ vững uy tín, hình ảnh cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân./.

                                                                 NGUYỄN PHÚ HƯNG