Thứ Tư, 28 tháng 12, 2016

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN GIÁ TRỊ CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC Ở VIỆT NAM

             Qua 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vậy mà, một số người lại cố tình phủ nhận những giá trị của chủ nghĩa xã hội và kết quả công cuộc đổi mới đất nước mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực, phấn đấu xây dựng nên - Điều đó thể hiện ý đồ xấu của họ.
          Gần đây, các đối tượng phản động đã phát tán một số bài viết nhằm xuyên tạc, đả kích chủ nghĩa xã hội hiện thực, rằng: “chủ nghĩa xã hội: xã hội chủ nô”, “chủ nghĩa xã hội sản sinh ra những con người và xã hội ích kỷ”; “đi theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin là một sai lầm lịch sử, Việt Nam đang bế tắc về kinh tế”; vu cáo Đảng cộng sản Việt Nam vi phạm nhân quyền, chuyên chính, quan liêu, v.v. Thực chất đó là cách nói, cách nhận xét phiến diện, phi lý, hoàn toàn không có cơ sở lý luận và thực tiễn, nhằm mục đích phủ nhận những giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội đang hiện hữu ở Việt Nam, tiến tới đòi xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
          Lý luận và thực tiễn khẳng định chế độ xã hội chủ nghĩa đã tạo nên những giá trị mới mà không một chế độ nào trước đó có được; những thành quả cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tạo nên những giá trị của chủ nghĩa xã hội, có sức sống bền vững, đặc biệt là những thành công trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Qua 30 năm đổi mới, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và tình trạng kém phát triển, kinh tế tăng trưởng khá, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng cường; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
          Trong chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, nhân dân ta được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; cuộc sống của người dân từng ngày được “thay da, đổi thịt”, từ chỗ phải chịu cảnh “thiếu thốn trăm bề, cơm không đủ no, áo không đủ mặc”, đến nay đã được thụ hưởng đầy đủ các dịch vụ phục vụ cho sự phát triển bản thân một cách toàn diện. Chính sách an sinh và phúc lợi xã hội phát triển khá đồng bộ, đặc biệt là trong vấn đề xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế toàn dân, chế độ ưu đãi người có công với nước, trợ giúp xã hội,… tạo điều kiện để người dân được hưởng thụ nhiều hơn về mọi mặt. Theo thống kê, hiện nay, cả nước có khoảng 8,8 triệu người có công được hưởng chế độ ưu đãi (10% dân số); khoảng 14 triệu người được hưởng trợ cấp thường xuyên; tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 5%, vùng đặc biệt khó khăn chỉ còn dưới 30%; 11 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, 190 nghìn người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, hơn 9 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp và hơn 61 triệu người tham gia bảo hiểm y tế. Việc phổ cập giáo dục tiểu học được hoàn thành vào năm 2010 (99% trẻ em trong độ tuổi học sinh bậc tiểu học được đến trường). Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, hệ thống cơ sở y tế được hình thành rộng khắp trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên một vạn dân tăng nhanh, đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh cho toàn dân. Tuổi thọ trung bình tăng, đạt 73,5 tuổi vào năm 2015. Các quyền cơ bản của con người trên tất cả các lĩnh vực được đảm bảo bằng pháp luật và trong thực tiễn. Điều 3 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhân, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân…”. Các chính sách dân tộc, tự do tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng hoàn thiện và được bảo đảm trong thực tiễn, v.v. Việc Việt Nam được bầu là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (khóa 2014 - 2016) là sự ghi nhận và khẳng định những thành tựu to lớn trong việc bảo đảm nhân quyền của Đảng, Nhà nước ta cùng những đóng góp quan trọng về thúc đẩy quyền con người trong khu vực và trên thế giới của Việt Nam.
          Cùng với đó, Đảng, Nhà nước quan tâm đẩy mạnh thực hiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường thuận lợi để phát triển nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ của công dân; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân, gia đình và xã hội. Quan tâm giáo dục, xây dựng con người Việt Nam với những đặc tính cơ bản “yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”, có thế giới quan khoa học, phát huy phẩm chất nhân ái, lối sống có trách nhiệm, “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”, hội tụ những giá trị “chân - thiện - mỹ”; khẳng định và tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp và nhân văn. Hiện nay, những giá trị mới của con người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, sáng tạo, khát vọng vươn lên của người dân Việt Nam đang từng bước được phát triển; những giá trị truyền thống quý báu của con người Việt Nam, như: yêu nước, đoàn kết, “thương người như thể thương thân”,... đã, đang ngày càng được nuôi dưỡng và phát huy. Hàng vạn những “Gương mặt tiêu biểu” trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, những “Việc tử tế”, những “Tấm gương bình dị mà cao quý”, những nghĩa cử cao đẹp, những chương trình “Trái tim cho em”, “Nâng bước em tới trường”... đang nở rộ, có sức lan tỏa rộng lớn trong toàn xã hội.
          Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà trong Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc thông qua các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ giai đoạn 2016 - 2030 (tháng 10-2015), Việt Nam được đánh giá là biểu tượng đấu tranh giành độc lập dân tộc, là hình mẫu về phát triển kinh tế, điểm sáng xóa đói giảm nghèo. Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon nhấn mạnh: “Nếu tất cả các nước đều nỗ lực như Việt Nam, chắc chắn thế giới sẽ thực hiện thành công các mục tiêu phát triển trong giai đoạn mới”. Đó là một sự ghi nhận khách quan của quốc tế về thành tựu phát triển và giá trị chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Và đó cũng là minh chứng rõ ràng, sống động nhất để phản bác lại những luận điệu xuyên tạc, vu khống của những kẻ chống phá cách mạng Việt Nam.
          Trong khi đó, nhìn vào nội tại xã hội tư bản hiện đại vẫn đang tồn tại đầy rẫy những khuyết tật, mâu thuẫn không thể giải quyết, như: thất nghiệp, đói nghèo, bất bình đẳng, khủng bố, v.v. Theo tổ chức từ thiện Oxfam đánh giá: chỉ 85 người giàu nhất thế giới có giá trị tài sản bằng 3,5 tỉ người nghèo; 1% người giàu nhất thế giới chiếm giữ khoảng 110 nghìn tỷ USD. Hiện nay, ở một số nước tỷ lệ người nghèo khá cao, như: Mê-hi-cô 21,4%; Israel 20,9%; Thổ Nhĩ Kỳ 19,2%; Chi-lê 17,8%; Anh 9,5%. Ngay ở Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới, chênh lệch giàu - nghèo rất lớn: 1% người giàu có giá trị tài sản hơn 90% người nghèo; 7% người giàu nắm giữ tới 63% tài sản quốc gia; 49,7 triệu người dân Mỹ trong diện nghèo, v.v. Đặc biệt, tình trạng khủng bố, bạo lực, tội phạm, an ninh, phân biệt chủng tộc, sắc tộc diễn ra tràn lan, kéo dài không dứt, nhất là ở các nước phương Tây, Mỹ, khu vực Trung Đông.
          Phủ nhận giá trị của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một thủ đoạn nham hiểm được các thế lực thù địch thường dùng với mục tiêu hòng phủ nhận, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Song, đó chỉ là sự ảo tưởng của những kẻ ngông cuồng, với bản chất hiếu chiến, xâm lược. Bởi, những thành quả đạt được và giá trị tốt đẹp mà chủ nghĩa xã hội đã mang lại cho nhân dân đang hiện hữu ở Việt Nam. Đó là điều không thể phủ nhận! Cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng đang diễn ra quyết liệt, cam go, phức tạp. Thực chất đó là cuộc đấu tranh giai cấp dưới hình thức mới, trong điều kiện mới. Đối với nhân dân ta đây là cuộc đấu tranh chính nghĩa để bảo vệ chân lý, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì thế, chủ động và tích cực tham gia cuộc đấu tranh này là trách nhiệm cao cả của tất thảy người Việt Nam yêu nước ở trong nước và nước ngoài, trước hết là cán bộ, đảng viên./.
                                                SỸ HỌA - QUANG HỢP


VAI TRÒ CỦA BIỂN ĐẢO TRONG LỊCH SỬ DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC

             Theo nhiều cứ liệu lịch sử, ngay từ buổi sơ khai của dân tộc, biển đã là môi trường làm ăn, sinh sống của các bộ lạc người Việt cổ; đồng thời, có vai trò quan trọng trong bảo vệ nền độc lập, tự chủ của Đại Việt. Truyền thuyết về Lạc Long Quân dẫn 50 người con xuống biển; hình thuyền khắc trên trống đồng Đông Sơn cùng hàng trăm hiện vật khảo cổ ở Hàng Kênh - Việt Khê (Hải Phòng),… đã khẳng định: môi trường sống của tổ tiên ta từ xa xưa không chỉ ở đất liền mà còn gắn bó chặt chẽ với biển.
            Cũng theo một số công trình nghiên cứu có uy tín, thực chất của quá trình hình thành nhà nước đầu tiên ở Việt Nam là sự giao thoa của hai xu hướng: từ núi xuống biển và từ biển phát triển lên. Trong đó, nhiều nhóm người (trước đây là cư dân ven biển), sau thời biển tiến (cách đây khoảng 4.000 - 5.000 năm) đã trở thành cư dân nội địa của những vùng đồng bằng trù phú. Không những thế, việc chinh phục biển của các bộ lạc người Việt đã tạo ra những mối giao lưu rộng với bên ngoài, như: Ấn Độ, Mã Lai, Nhật Bản,… thậm chí tới cả Địa Trung Hải, tạo động lực phát triển trên nhiều mặt. Đây là một trong những nét độc đáo trong quá trình hình thành Nhà nước Văn Lang; đồng thời, góp phần quy định bản sắc văn hóa dân tộc từ thời dựng nước.
            Cùng với đó, vùng biển, đảo của nước ta còn có vị trí, vai trò quan trọng trong bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Trên thực tế, một số triều đại phong kiến phương Bắc và hai đế quốc đầu sỏ là  thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đều mở đầu xâm lược nước ta từ hướng biển. Chính vì lẽ đó mà từ xa xưa, các triều đình phong kiến Việt Nam đều chăm lo và có nhiều chính sách bảo vệ, thực thi chủ quyền đối với các vùng biển, đảo của mình. Ví như, dưới thời nhà Lý đã thiết lập ra các “trang”; thời nhà Trần tổ chức ra các “trấn”, đến thời Lê đặt ra chế độ “tuần kiểm” ở các xứ cửa biển và các đảo,… để quản lý các vùng hải đảo. Đặc biệt, thời nhà Nguyễn còn tổ chức các đội Hoàng Sa, Bắc Hải để bảo vệ, quản lý, thực thi chủ quyền ở các đảo, quần đảo xa bờ. Thực tiễn lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc ta cũng cho thấy, trên môi trường sông biển đã hình thành những trận thủy chiến oanh liệt, đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược.  Đặc biệt, trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã lấy chiến trường sông biển để tạo thành lũy chống địch phong tỏa, đột nhập, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa; đồng thời, mở đường vận chuyển chiến lược trên biển, chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam, góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
            Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, vùng biển nước ta đã, đang trở thành không gian chiến lược đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với vùng biển rộng, bờ biển dài cùng hệ thống đảo, quần đảo từ xa đến gần đã tạo môi trường sinh tồn và phát triển đời đời của dân tộc ta; đồng thời, hình thành thế liên hoàn, vững chắc bờ - biển - đảo trong thế phòng thủ chung của cả nước. Tuy nhiên, trước tham vọng và toan tính của thế lực nước ngoài, vùng biển nước ta cũng tiềm ẩn những nguy cơ mất ổn định, khó lường. Vì thế, cùng với tập trung các nguồn lực để khai thác, phát triển kinh tế biển, chúng ta cần coi trọng xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc.
                                                            Tạ Quang thực hiện


SỰ NGUY HIỂM CỦA LUẬN ĐIỆU ĐÒI "PHI CHÍNH TRỊ HÓA" QUÂN ĐỘI

              Không phải hiện nay, mà ngay từ những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, chúng ta đã phải đương đầu với những luận điệu hết sức nguy hiểm của các thế lực thù địch hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam; trong đó, đòi “phi chính trị hóa” quân đội là luận điệu số một.
            Để hiện thực hóa mục tiêu, chúng tiến hành chống phá ta một cách bài bản bằng cả lực lượng trong nước và ngoài nước, tận dụng công nghệ thông tin để làm trò ảo thuật, hòng xuyên tạc, bịa đặt sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với Quân đội. Trên các phương tiện thông tin, nhất là mạng xã hội, các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội chính trị tung ra đủ mọi “lý lẽ”, “cơ sở” của việc đòi “phi chính trị hóa” quân đội. Luận điệu chống phá của chúng thường được chuyển tải trên các phương tiện thông tin của phương Tây; được “cài đặt” trên các mạng xã hội, như: web, facebook, blog cá nhân;… và được “kích hoạt” vào những thời điểm nhạy cảm. Tất cả những gì chúng đề cập đều rất thâm hiểm, bởi nó quan hệ trực tiếp đến chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản và Quân đội ta. Thực hiện thủ đoạn “mưa dầm thấm lâu”, chúng nhai đi nhai lại: “quân đội phải đứng ngoài chính trị”, “quân đội không chịu sự lãnh đạo của bất cứ đảng phái nào”, v.v. Thực chất của luận điệu xuyên tạc đó là nhằm tách Quân đội  khỏi Đảng Cộng sản; đồng thời, kích động tư tưởng chống đối Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó, chúng ra sức phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới đất nước,… hòng làm cho cán bộ, chiến sĩ mất lòng tin vào nền tảng tư tưởng của Đảng,  tạo khoảng trống về tư tưởng - lý luận, để luồn lách quan điểm, lập trường giai cấp tư sản. Do không thể phủ nhận được những thành tựu trong công cuộc đổi mới đất nước của nhân dân ta, chúng tìm cách thổi phồng khuyết điểm và nguyên nhân nhằm hạ thấp vai trò lãnh đạo, quản lý, điều hành của Đảng, Nhà nước, từ đó phê phán chế độ xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,… để đề cao thể chế “tam quyền phân lập”, kinh tế thị trường hiện đại (theo kiểu tư bản chủ nghĩa) và “xã hội dân sự” - xem đó là “ba trụ cột” của Việt Nam thời kỳ đương đại”! Lố bịch hơn, chúng còn trắng trợn vu khống Đảng Cộng sản Việt Nam là “độc tài, toàn trị”, vi phạm “dân chủ, nhân quyền”, “tham ô, tham nhũng”, “đã hết vai trò lịch sử”,… và hô hào đòi giải tán Đảng Cộng sản, đòi “đa nguyên, đa đảng”!? v.v.
            Đặc biệt, chúng tiếp tục đòi bỏ Điều 4 trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 - tức xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận mục tiêu chiến đấu của Quân đội ta. Chúng phê phán học thuyết Mác - Lê-nin về xây dựng quân đội kiểu mới - để phủ nhận chức năng, nhiệm vụ cơ bản nhất của Quân đội ta. Trơ tráo hơn, chúng còn phủ nhận tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về quân sự, quốc phòng, xây dựng Quân đội về chính trị, hòng tạo cơ sở cho việc đòi “phi chính trị hóa” quân đội. Chúng tập trung công kích nguyên tắc Đảng lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với Quân đội; cho rằng nguyên tắc đó thể hiện Đảng tự cho mình quyền đứng trên xã hội, trên luật pháp, bởi quân đội là để “bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân”, Đảng chỉ là một bộ phận của xã hội, sao lại giành “độc quyền lãnh đạo” cho riêng mình!
            Không chỉ thế, các thế lực thù địch còn tìm cách để hạ thấp vai trò công tác đảng, công tác chính trị, hệ thống cơ quan chính trị và cán bộ chính trị các cấp trong Quân đội. Chúng tung ra nhiều luận điệu được che đậy, ngụy trang kín đáo mà nếu người nghe không suy xét kỹ sẽ dễ ngộ nhận, như: trong thời buổi kinh tế thị trường, lợi nhuận là mục đích, vật chất là đòn bẩy, thì “công tác động viên chính trị, tinh thần không còn tác dụng nữa”; rằng: trong chiến tranh hiện đại, quyết định thắng lợi là công tác tham mưu, hậu cần, kỹ thuật, còn “công tác chính trị, cán bộ chính trị chỉ là những thứ ăn theo mà thôi”! Để gây mâu thuẫn, chia rẽ “tự diễn biến” nội bộ ta, chúng sử dụng nhiều “mưu ma, chước quỷ”, kể cả việc nghiên cứu, viện dẫn có “chọn lọc” những bất cập về chế độ, chính sách và so sánh một cách khập khiễng về trần quân hàm giữa cán bộ chính trị với các cán bộ hậu cần, kỹ thuật, v.v. Đặc biệt, chúng ra sức đề cao sức mạnh quân đội các nước tư bản và “khuyên” Quân đội ta nên thực hiện “chuyên nghiệp hóa” - mà thực chất nhằm hạ thấp nhân tố chính trị - tinh thần của Quân đội. Chúng triệt để lợi dụng các trang mạng xã hội để đơm đặt, bôi nhọ các đồng chí, chỉ huy trong Quân đội; đồng thời, lợi dụng một số sự kiện liên quan đến quân sự, quốc phòng để bịa đặt về: “thanh trừng nội bộ”, “tham ô, tham nhũng”,… hòng tạo dư luận xấu trong xã hội, hạ thấp uy tín của Quân đội.
            Cùng với đó, chúng còn tìm mọi cách móc nối, cài cắm, truyền bá tư tưởng, quan điểm sai trái, như: đòi “dân chủ, dân sinh”, “đa nguyên, đa đảng”, lối sống ích kỷ, hưởng thụ, buông thả, “tự do chủ nghĩa” vào đội ngũ sĩ quan hòng gây “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ quân đội. Chúng lợi dụng một số hiện tượng tiêu cực, tệ nạn xã hội để xuyên tạc bản chất và truyền thống của Quân đội ta. Chúng trắng trợn bôi xấu chế độ và Quân đội ta, rằng: xã hội “thì tham nhũng tràn lan, sĩ phu ngoảnh mặt”; quân đội thì “binh kiêu, tướng thoái”,… rồi kết luận: thử hỏi, nhân dân còn tin được vào ai? Chúng bịa đặt, vu khống Quân đội: chỉ lo bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, mà không quan tâm tới bảo vệ đất nước, bảo vệ nhân dân. Rằng, do phải chăm lo cho “con đường xã hội chủ nghĩa”, được đi đầu trong chống “diễn biến hòa bình” và mải đề phòng “nhân dân”,… nên Quân đội đã quên mất “chức năng” của mình; tình cảm quân - dân phai nhạt, làm kinh tế thì “thua lỗ” mặc dù được bao cấp! v.v.
Rõ ràng, những luận điệu xuyên tạc trên của chúng đều là sự ngụy tạo, xúc xiểm, đầy kích động nhằm làm cho Quân đội ta tách khỏi sự lãnh đạo của Đảng; mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng, mất phương hướng chiến đấu, dẫn đến dễ bị “vô hiệu hóa”, v.v. Nếu chúng ta không cảnh giác, vạch rõ những thủ đoạn hết sức thâm độc của các thế lực thù địch, phản động để kiên quyết đấu tranh bác bỏ, thì sẽ trở thành nguy cơ hiện hữu thực sự đối với Quân đội.
            Cả lý luận và thực tiễn đều chứng minh: không thể có bất cứ một quân đội nào “trung lập về chính trị”, “đứng ngoài chính trị” hay tách khỏi “sự lãnh đạo của chính đảng cầm quyền”. Do vậy, mọi luận điệu đòi “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch thực chất là giả dối, lừa bịp, hòng che đậy mưu đồ chính trị xấu xa - vô hiệu hóa Quân đội để dễ bề chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
            Chúng ta đều biết, mục tiêu xuyên suốt của chủ nghĩa đế quốc là xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Đòi “phi chính trị hóa” quân đội là khâu đột phá của quá trình thực hiện mục tiêu nêu trên của chúng. Nhưng tham vọng là một chuyện, còn thành công là một chuyện khác. Có thể chúng có thừa tham vọng, cả quyết tâm thực hiện tham vọng, nhưng tham vọng đó có trở thành hiện thực hay không lại không phụ thuộc vào chúng, mà quyết định ở chúng ta.
            Sự khẳng định đó có cơ sở lý luận, thực tiễn vững chắc. Bởi, Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện. Sự lãnh đạo của Đảng trở thành nguyên tắc căn bản trong xây dựng Quân đội, quyết định bản chất giai cấp, mục tiêu lý tưởng chiến đấu, sự trưởng thành, lớn mạnh và chiến thắng của Quân đội ta trong mọi thời kỳ cách mạng. Mối quan hệ giữa Đảng với Quân đội đã trở thành bản chất, truyền thống quý báu của Quân đội ta. Thực tiễn 72 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, Quân đội ta luôn quán triệt, thấm nhuần sâu sắc mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Quân đội ta luôn lấy mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng, của dân tộc làm mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của mình. Chính vì thế, Quân đội ta luôn được nhân dân hết sức yêu thương, nuôi dưỡng, đùm bọc và yêu mến gọi tên: Bộ đội Cụ Hồ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội luôn nhận rõ kẻ thù của nhân dân, của dân tộc; xác định đúng đối tượng tác chiến; vận dụng, phát triển sáng tạo nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc, luôn kề vai, sát cánh, đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc - sức mạnh vô cùng to lớn để chiến đấu và giành những chiến thắng vĩ đại, đánh bại những tên đế quốc thực dân, có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn nhiều lần. Nhờ có sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta luôn vững vàng về bản lĩnh chính trị, sức mạnh chiến đấu cao, trở thành quân đội bách chiến, bách thắng, quân đội anh hùng của dân tộc Việt Nam anh hùng. Đó là sự thật - là chân lý không thể bác bỏ!
            Thời gian tới, các thế lực thù địch sẽ tập trung chống phá Quân đội ta quyết liệt và nguy hiểm hơn. Mọi âm mưu tách Quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng đều nhằm cô lập Đảng, làm cho Đảng mất đi lực lượng chính trị trung thành, tin cậy nhất, mất đi sức mạnh vật chất to lớn nhất. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải quán triệt sâu sắc hơn nữa đường lối, quan điểm của Đảng; luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh có hiệu quả với mọi luận điệu đòi “phi chính trị hóa” quân đội. Đặc biệt, phải quán triệt, thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 04 (khóa XI, XII) về xây dựng Đảng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; tập trung xây dựng Quân đội ta vững mạnh, xứng đáng với lời khen của Bác: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
                                                            VINH HIỂN


“TỰ DIỄN BIẾN”, “TỰ CHUYỂN HÓA” - NHẬN DIỆN VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG

                Thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là một trong những thủ đoạn thâm độc, nguy hiểm của các thế lực thù địch nhằm phá hoại nội bộ cơ quan Đảng, Nhà nước ta. Điều đáng quan ngại là nó diễn ra ngấm ngầm rất khó nhân diện. Vì thế, cần phải cảnh giác, có biện pháp phòng, chống hiệu quả.
            Theo Đại Từ điển tiếng Việt: “Diễn biến là biến đổi theo chiều hướng nào đó”; “chuyển hóa là biến đổi từ dạng này, hình thái này sang dạng khác, hình thái khác”. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là nói tới sự suy thoái, thay đổi quan điểm, lập trường tư tưởng chính trị ở một bộ phận cán bộ, đảng viên từ thái cực này sang thái cực khác mà hậu quả nó gây ra hết sức nguy hiểm, phá hoại sự đoàn kết, thống nhất, nền tảng tư tưởng, cương lĩnh, đường lối của Đảng, làm mục ruỗng Đảng từ bên trong, dẫn đến chuyển hóa chế độ.
            Biểu hiện trước hết của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là sự hoang mang, dao động về tư tưởng chính trị, sự hoài nghi về vai trò lãnh đạo của Đảng, tính khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta. Tiếp đến là chủ động hơn trong tiếp nhận những thông tin trái chiều, thu thập tin tức nội bộ, công khai luận điệu chống đối, phản động và những tiêu cực trong đời sống xã hội; đồng thời, câu kết, tiếp tay cho các phần tử thù địch từ bên ngoài để chống phá cách mạng Việt Nam. Ở mức cao hơn, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bộc lộ rõ tư tưởng phản động, chống đối, thách thức với pháp luật và hệ thống chính trị; xây dựng và phát tán những “thư ngỏ”, “tâm thư”, “kiến nghị”; tập hợp, thành lập những “hội”, “đoàn” độc lập, tổ chức chính trị đối lập với Đảng và hệ thống chính trị trong xã hội Việt Nam, v.v. Tất cả những biểu hiện đó, là mảnh đất màu mỡ để các thế lực thù địch lợi dụng, khoét sâu, kích động chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Nguy hại hơn là trong số những người có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có cả một số vị là lão thành cách mạng, cán bộ cấp cao, trí thức có tên tuổi, ít nhiều có cống hiến cho đất nước, cho nên những nhận thức và hành động của họ dễ lây lan, phát tán là điều dễ hiểu.
            “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thường xuất hiện khi cách mạng có những “bước ngoặt”, tình hình thế giới, trong nước diễn biến phức tạp, nhiều khó khăn, thách thức; tình trạng mất dân chủ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, phân hóa giàu nghèo, … dẫn tới sự bất mãn, bất bình trong xã hội; sự kích động, chia rẽ, lôi kéo, mua chuộc, “hà hơi tiếp sức” của các thế lực thù địch, v.v. Song, trước hết và chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan từ chính bản thân những cán bộ, đảng viên có lập trường tư tưởng chính trị không vững vàng; thiếu tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức, lối sống, có biểu hiện chạy chức, chạy quyền, tranh giành, kèn cựa địa vị, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân, vi phạm pháp luật, v.v. Khi bị phát giác, xử lý kỷ luật thì bảo thủ, không những không nhận ra sai lầm, khuyết điểm mà lại bất mãn, suy diễn, dẫn đến thay đổi nhận thức, quan điểm, lập trường, thiếu niềm tin vào Đảng, chế độ. Các biểu hiện suy thoái trên có quan hệ tương tác với nhau; từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị dẫn tới sự tha hóa về phẩm chất đạo đức, lối sống và ngược lại, tha hóa về đạo đức, lối sống dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng, chính trị. Trong khi đó, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, chặt chẽ và chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ; sự phát triển mạnh mẽ của các trang mạng xã hội, hệ thống thông tin đại chúng và tác động của mặt trái cơ chế thị trường, … ngày một gia tăng đã làm nghiêm trọng thêm sự xuống cấp về phẩm chất đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
             Tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” càng nguy hiểm hơn trong điều kiện các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với cách mạng nước ta. Giữa chúng có mối quan hệ tương hỗ, tác động lẫn nhau và là hệ quả của nhau. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là “đồng minh” tự nhiên của “diễn biến hòa bình”, làm cho nó càng nguy hiểm hơn; đến lượt nó - “diễn biến hòa bình” lại tác động trở lại thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trầm trọng hơn, ảnh hưởng trực tiếp tới sự mất còn của Đảng, Nhà nước và chế độ. Nó có thể diễn ra trong nội bộ Đảng, chính quyền Nhà nước và trong xã hội; nảy sinh từ những cán bộ, đảng viên, quần chúng đến những người có chức, có quyền trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước ở các cấp.
            Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đảng ta đã cảnh báo về sự hiện hữu của những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đang diễn biến hết sức phức tạp và nguy hiểm, nguy cơ lớn đối với sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ. Bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, mà nguyên nhân chủ yếu là do “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ vẫn còn nóng hổi. Đảng ta đã sớm cảnh báo và có nhiều chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, kiên quyết đấu tranh, phòng, chống với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Mới đây, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư (khóa XII) đã ra Nghị quyết về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Điều đó khẳng định tiếp tục kiên trì, kiên quyết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng; đồng thời, thể hiện quyết tâm chính trị cao của Đảng đối với thứ “giặc nội xâm” này. Để đấu tranh, phòng, chống hiệu quả cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp cơ bản sau:
            Trước hết, cần làm tốt công tác giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân mức độ nguy hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và đề cao trách nhiệm trong đấu tranh. Hiện nay, một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn mơ hồ, chưa nhận thức đúng về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và mức độ nguy hiểm của nó đối với sự tồn vong của Đảng, chế độ. Bởi vậy, việc giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là giải pháp hết sức quan trọng. Trước mắt, cần làm cho mọi người nhận thức được những biểu hiện của nó đã được Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) chỉ ra; tình hình suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành; thấy được việc phòng, chống sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là cuộc đấu tranh hết sức cam go, phức tạp diễn ra ngay trong nội bộ, giữa ta với ta, v.v. Đồng thời, làm rõ sự nguy hiểm của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nếu như không phòng, chống, đấu tranh kịp thời, kiên quyết. Trên cơ sở nhận thức đúng, đề cao quyết tâm, ý thức trách nhiệm, dám nói, dám làm, dám đấu tranh với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; nâng cao khả năng “miễn dịch” của mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng trước sự tác động chuyển hóa, cùng những tiêu cực trong đời sống xã hội. Việc giáo dục nâng cao nhận thức phải đi đôi với khắc phục những biểu hiện mơ hồ, mất cảnh giác, không thể hiện rõ lập trường, quan điểm trước những hành vi tiêu cực, hoặc thờ ơ, không dám đấu tranh với sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, v.v.
            Hai là, phải quán triệt và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII). Việc ban hành Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) cho thấy quyết tâm rất lớn của Đảng trong ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đặc biệt, Nghị quyết lần này đã thẳng thắn chỉ rõ những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm cơ sở để đấu tranh, khắc phục. Nghị quyết xác định 4 nhóm giải pháp mang tính cơ bản, toàn diện, khoa học và có mối quan hệ biện chứng với nhau. Theo đó, các cấp ủy, tổ chức đảng cần nhận thức sâu sắc về nguy cơ, nhận diện đúng những biểu hiện và đề ra các giải pháp phù hợp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; gắn thực hiện nghị quyết Trung ương 4 với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Quy định về những điều đảng viên không được làm, tạo sức mạnh tổng hợp để ngăn chặn, đẩy lùi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đồng thời, làm tốt công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, phát huy vai trò của các tổ chức đảng và đảng viên trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kiên quyết khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức, trách nhiệm năng lực tốt và động cơ phấn đấu đúng đắn, thực sự tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích của tập thể, quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân. Trên cơ sở nhận thức đúng, nắm vững nội dung và hệ thống giải pháp, cấp ủy các cấp nghiên cứu xây dựng kế hoạch, chương trình hành động phù hợp, đánh giá đúng thực tế, nhận diện và chỉ ra những biểu hiện cụ thể ở từng cán bộ, đảng viên, bảo đảm rõ từng nội dung, hình thức, bước đi, biết lựa chọn vấn đề trọng tâm, tránh dàn trải, v.v.
            Ba là, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, đề cao vai trò tiền phong, gương mẫu của người đứng đầu. Tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng ta. Thông qua việc làm này, cơ thể Đảng như được gột sạch những vết nhơ; cán bộ, đảng viên nhận rõ ưu, khuyết điểm của mình để phấn đấu và rèn luyện; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ được nhận diện và khắc phục. Bởi thế, cần đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong hoạt động và sinh hoạt Đảng với tinh thần xây dựng, trung thực, chỉ rõ những biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Các cấp ủy, tổ chức đảng cần xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh. Cấp trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức tạp, nơi có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Cùng với đó, cần đề cao vai trò gương mẫu của người đứng đầu trong rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đổi mới phong cách làm việc, sâu sát cơ sở. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường “sức đề kháng” nhằm vô hiệu hóa mọi âm mưu, hoạt động phá hoại tư tưởng, thâm nhập, chuyển hóa, lũng đoạn nội bộ, tha hóa cán bộ Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch. Vận dụng linh hoạt các biện pháp xử lý đối với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; “xây” đi liền với “chống”, nói đi đôi với làm, tạo môi trường thuận lợi phòng, chống có hiểu quả biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
            Bốn là, phát huy vai trò, nêu cao trách nhiệm của các cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí trong công tác đấu tranh phòng, chống suy thoái, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trước mắt, cần tăng cường quản lý, chấn chỉnh hoạt động báo chí, xuất bản, in-tơ-nét và các trang mạng xã hội; chủ động định hướng, cung cấp thông tin kịp thời. Chú trọng tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những thành quả trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhân rộng điển hình tiên tiến, nêu gương “người tốt, việc tốt”; đồng thời, có những bài viết sắc sảo, ý thức chính trị cao nhằm phê phán, lên án những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội và những biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đi đôi với khen thưởng kịp thời những tập thể, cá nhân có thành tích; cần xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân vi phạm quy định về thông tin, báo chí, tuyên truyền và lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, tôn giáo, dân tộc để tuyên truyền, xuyên tạc và có hành vi nói, viết, lưu trữ, phát tán tài liệu sai trái.
Nhận diện đúng, đấu tranh, khắc phục kịp thời những biểu hiện của sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là biện pháp hết sức quan trọng để khắc phục những hiểm họa khôn lường mà nó gây ra đối với Đảng và chế độ ta. Làm được điều đó, sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chế độ và làm thất bại những mưu đồ lợi dụng vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch./.
                                                                                    TRÁNG A LÂM


ĐẰNG SAU NHỮNG ĐỊNH KIẾN THIÊN LỆCH VỀ TỰ DO TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM

         Cùng với tiến trình hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế, Việt Nam đã có bước chuyển mạnh mẽ, tích cực về tự do tín ngưỡng, tôn giáo, được cộng đồng quốc tế thừa nhận, đánh giá cao. Tuy nhiên, vẫn còn một số nước, tổ chức, cá nhân chưa thấy hoặc không muốn thấy kết quả đó, do định kiến; thậm chí có thế lực thù địch trắng trợn xuyên tạc Luật Tín ngưỡng, tôn giáo sau khi Quốc hội Khóa XIV vừa thông qua. Tại sao vậy?
            Những người theo dõi sát tình hình tôn giáo ở Việt Nam cả khía cạnh pháp lý và thực tiễn đều có chung câu trả lời rằng: vấn đề không đơn thuần chỉ là định kiến thiên lệch, mà điều quan trọng hơn là những định kiến thiên lệch đó mang dụng ý xấu, nhằm chống phá Việt Nam. Có không ít những minh chứng cho thấy rõ điều này. Mới đây, ngày 10-8-2016, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lại một lần nữa tự cho mình quyền phán xét về tự do tôn giáo thế giới, trong đó có Việt Nam. Ngay sau khi bản báo cáo được đưa ra, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã lên tiếng phản đối về những thông tin sai sự thật, những trích dẫn không chính xác thể hiện sự sai lệch, định kiến của nó. Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình cho rằng: “Việt Nam ghi nhận một số điều chỉnh trong Báo cáo tình hình tự do tôn giáo quốc tế năm 2015 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ so với các báo cáo trước đây, song đáng tiếc, Báo cáo vẫn tiếp tục đưa ra một số đánh giá không khách quan, trích dẫn những thông tin sai lệch về Việt Nam”. Cùng với dân chủ, nhân quyền việc đánh giá không khách quan đưa ra những thông tin sai lệch về tự do tôn giáo ở Việt Nam đã trở thành vấn đề mang tính hệ thống của Hoa Kỳ và nhiều nước phương Tây trong nhiều năm qua. Tình trạng đó có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có thể có nguyên nhân về sự khác biệt trong quan niệm về vấn đề này giữa các quốc gia (khác biệt về điều kiện kinh tế, xã hội, pháp luật...), song cần khẳng định nguyên nhân sâu xa và trực tiếp nhất là những định kiến thiên lệch đó mang mưu đồ xấu, nhằm cổ súy cho tự do, dân chủ, nhân quyền không giới hạn, bất chấp luật pháp, lợi ích của quốc gia sở tại; hay xét đến cùng là hòng phá hoại các quốc gia này, trong đó có Việt Nam.
            Những phát triển, tiến bộ của Việt Nam về tự do tôn giáo đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận và đánh giá cao trong nhiều năm qua. Điều này thể hiện qua các điều luật, chế định về hoạt động tôn giáo đã được Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam xác định; qua sự mở rộng và lớn mạnh không ngừng về tổ chức và các hình thức hoạt động tôn giáo; qua thực tế các chính sách ưu tiên chăm lo phát triển các vùng dân cư của đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo và trong các hoạt động đối ngoại quốc tế của các tôn giáo. Mọi hoạt động của các tổ chức, tín đồ tôn giáo trong những năm qua phù hợp với luật pháp đều diễn ra bình thường, không hề có sự ngăn cản, cấm đoán nào của các cấp chính quyền. Không những thế, Nhà nước Việt Nam còn có những chương trình, dự án quốc gia về chính sách tăng cường đầu tư phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào các tôn giáo, nhất là các vùng Tây Nguyên, vùng núi phía Bắc, đồng bằng sông Cửu Long, như: hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, xóa đói, giảm nghèo, v.v. Nhà nước Việt Nam rất quan tâm tới việc tăng cường các hoạt động đối ngoại quốc tế về tôn giáo. Gần đây, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã tham gia làm thành viên Hội đồng Giám mục châu Á, Giáo hội Phật giáo Việt Nam tham dự hội nghị thượng đỉnh Phật giáo hằng năm; đồng thời, tổ chức đón các đoàn chức sắc, Phật giáo quốc tế tới thăm, tham dự một số hoạt động tôn giáo ở Việt Nam. Gắn liền với công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước, việc đào tạo, bồi dưỡng các chức sắc, chức việc tôn giáo và cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ trong giáo hội được Đảng, Nhà nước Việt Nam tạo điều kiện và các giáo hội tiến hành tích cực. Nhiều cơ sở thờ tự mới được xây dựng, tu sửa khang trang. Việc tiến hành sinh hoạt tôn giáo được diễn ra thường xuyên… Điều đáng nói nhất là, ngày 18-11-2016, kỳ họp thứ 2 quốc hội khóa XIV nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo với tỷ lệ nhất trí cao (84,58% đại biểu tán thành), sau khi có sự tham khảo ý kiến của các chức sắc tôn giáo. Sự kiện này có ý nghĩa thiết thực đối với việc thúc đẩy tự do tôn giáo đang được Đảng, Nhà nước ta và các tổ chức, tín đồ tôn giáo quan tâm.
            Thế nhưng, mặc cho những phát triển tiến bộ về dân chủ, nhân quyền của Việt Nam nói chung, về tự do tôn giáo nói riêng đã được hầu hết các quốc gia trong Liên hợp quốc nhìn nhận tích cực, vẫn còn có những nhận định thiên lệch, hoặc thừa nhận một cách miễn cưỡng qua Báo cáo về tự do tôn giáo thế giới của Hoa Kỳ vừa qua. Một số vấn đề được cho là Chính phủ Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo: đối xử bạo lực, giam giữ, truy tố, giám sát việc đi lại với một số chức sắc tôn giáo; hạn chế các hoạt động của một số nhóm tôn giáo hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế; cản trở hoạt động của các tổ chức tôn giáo không đăng ký, v.v. Trong đó, nhiều thông tin không có cơ sở, mang tính mơ hồ, phỏng đoán được khai thác từ các tổ chức phi chính phủ đã từng bị nhiều quốc gia khác chỉ trích, nhưng vẫn đưa vào Báo cáo và được coi là sự thật. Việc đưa ra địa chỉ một số chức sắc tôn giáo được cho là bị xâm phạm tự do tôn giáo, thì trên thực tế hầu hết những nhân vật này đều có tỳ vết vi phạm pháp luật, như: kích động quần chúng biểu tình tự phát, có người còn là thành phần trong tổ chức công khai phản bác chế độ. Cùng với thời điểm Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa ra Báo cáo về tự do tôn giáo thế giới, người ta còn nhận thấy rõ bàn tay của tổ chức phản động Cờ Vàng Việt Tân ở Ca-li-pho-ni-a “tát nước theo mưa”. Họ rầm rộ kêu gọi cộng đồng hải ngoại quyên góp ủng hộ cho cái gọi là “phong trào tự do tôn giáo” ở Việt Nam. Đi liền theo đó là những luận điệu xuyên tạc cho rằng “Việc Nhà nước Việt Nam đưa ra Luật Tôn giáo là nhằm siết chặt quyền tự do tôn giáo”, thậm chí trắng trợn hơn: “Những vi phạm về tự do tôn giáo ở Việt Nam vẫn tiếp diễn đã lên tới mức cần phải đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia đáng quan ngại về tự do tôn giáo”.
            Mới đây, ngày 19-12, trong Hội nghị làm việc với chức sắc cao cấp các tổ chức tôn giáo toàn quốc, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc - người đứng đầu Chính phủ Việt Nam cho rằng, công tác tôn giáo, hoạt động tôn giáo đang phải đối diện với những khó khăn, thách thức do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan; trong đó, có cả sự xúi giục, kích động từ các thế lực xấu. Để giải quyết khó khăn, vướng mắc trên, Thủ tướng đề nghị các chức sắc cần tăng cường phối hợp với cơ quan chức năng của Nhà nước cùng tháo gỡ trên tinh thần xây dựng, thiện chí, khách quan, thượng tôn pháp luật, bảo đảm quyền tự do tôn giáo của mọi người, và phải: “kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, trục lợi, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối an ninh trật tự, lợi dụng chống phá Nhà nước, gây cản trở đối với Việt Nam trong tiến trình phát triển và hội nhập quốc tế”. Đồng thời: “Phát huy các nguồn lực tôn giáo, tạo sức lan tỏa trong xã hội, xây dựng nếp sống văn minh tốt đời, đẹp đạo gắn bó đồng hành cùng dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp trong xây dựng và phát triển đất nước”.
            Thiết nghĩ, đó là những định hướng cơ bản, đảm bảo cho sự phát triển, tiến bộ của các tổ chức tôn giáo, để tôn giáo ngày càng tham gia thiết thực vào công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và tự do tôn giáo của người dân ngày càng được phát huy đầy đủ.
                                                                                    THƯỜNG VŨ

Thứ Ba, 15 tháng 11, 2016

" CÁCH MẠNG HOA SEN " - CUỘC CÁCH MẠNG ẢO TƯỞNG

             Đã từ lâu các thế lực thù địch ráo riết đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hòa bình” hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nhưng rốt cuộc đều thất bại cay đắng. Với bản chất hiếu chiến, thù địch, họ không những không dừng lại mà còn tiếp tục chống phá điên cuồng bằng những thủ đoạn mới; trong đó, tích cực tuyên truyền về cái gọi là cuộc “Cách mạng hoa Sen” ở Việt Nam.
            Trước hết phải thừa nhận rằng, trong quá trình tiến hành chiến lược “Diễn biến hòa bình” ở Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động có rất nhiều “âm mưu, chước quỷ”, thâm độc, nguy hiểm. Và, cũng phải thừa nhận rằng, mặc dù đã nhận được những thất bại thảm hại, song họ vẫn “kiên định” chống phá điên cuồng cách mạng Việt Nam. Gần đây, họ ra sức tuyên truyền đang chuẩn bị cho cái gọi là “Cách mạng hoa Sen” ở Việt Nam. Tại sao, họ chọn hoa Sen làm tên gọi của cuộc cách mạng? Bởi lẽ, hoa Sen là biểu tượng cao đẹp nhất của dân tộc Việt Nam. Từ ngàn đời, hoa Sen đã gắn liền với người dân đất Việt, ăn sâu trong tiềm thức của mỗi người qua những vần thơ, những câu ca dao đầy sâu lắng - “Trong đầm gì đẹp bằng Sen/ Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng/ Nhụy vàng bông trắng lá xanh/ Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Không những thế, hoa Sen còn gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài, của cách mạng Việt Nam, dân tộc Việt Nam - “Tháp Mười đẹp nhất bông sen/ Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”. Phải chăng vì những lẽ đó, cùng nhiều lý do khác mà có không ít người mong muốn, đề xuất lấy hoa Sen làm quốc hoa Việt Nam. Sự thâm độc của các thế lực thù địch, phản động chính là ở chỗ này - lấy tên cho một cuộc cách mạng ảo tưởng - “Cách mạng hoa Sen”. Dẫu rằng họ vẫn biết một cuộc cách mạng tưởng tượng, phi hiện thực sẽ không thể có kết quả trên thực tế nếu không muốn nói tất yếu thất bại, nhưng do tham vọng một cách điên cuồng, mù quáng, nên họ vẫn ra sức tuyên truyền và chí ít cũng gây sự chú ý đối với một số ít người về tên gọi của cái gọi là cuộc “Cách mạng hoa Sen”. Vậy để thuyết phục mọi người tin vào thành công của một cuộc cách mạng ảo tưởng, với tên gọi mỹ miều đó, họ bấu víu vào cơ sở nào? Câu trả lời là có!  Họ cũng đang ra sức tuyên truyền về thành công của các cuộc cách mạng mà họ đã từng tiến hành ở một số nước, mới như: “Cách mạng hoa Hồng”, “Cách mạng hoa Tuy Líp”,… nên có thể thấy đây thực chất là biến thể của “Cách mạng màu” mà họ từng sử dụng để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa và những nước  không đi theo quỹ đạo của họ. Trên thực tế đối với Việt Nam, họ đang vận dụng những kinh nghiệm trong quá khứ để chống phá mạnh vào nền tảng tư tưởng của Đảng ta là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng kết cục thì sao? Họ đã thất bại không làm lung lay được ý chí của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Từ đó, các thế lực thù địch thay đổi bằng cách kết hợp cả thủ đoạn cũ với thủ đoạn mới là quay sang tán dương, ủng hộ giữ lại tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Dù khuynh hướng nào đi chăng nữa thì dã tâm đen tối, thâm độc, nguy hiểm của họ vẫn không có gì thay đổi. Vì thế, thực hiện cuộc “Cách mạng hoa Sen”, họ sẽ che dấu được âm mưu hòng dễ bề lôi kéo nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Các cuộc “Cách mạng màu” chủ yếu thông qua phong trào của thanh niên để tiến hành biểu tình, gây dư luận, thúc ép chính quyền đương nhiệm từ chức. Họ biết rằng, thanh niên là chủ thể trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là thanh niên trí thức, nhưng thanh niên cũng dễ bị lôi cuốn do tính cách nhiệt tình và thiếu kinh nghiệm, v.v. Nhận rõ đặc điểm này, nhiều thế lực phản động đã thông qua các hoạt động phong trào để kích động thanh niên biểu tình, gây bạo loạn, lật đổ.
            Thực tế, các cuộc cách mạng màu đã diễn ra ở một số nước, như: “Cách mạng hoa Hồng” ở Gru-di-a năm 2003, “Cách mạng Cam” ở U-crai-na năm 2004, “Cách mạng hoa Tuy-líp” ở Cư-rơ-gư-xtan năm 2005,… hay cuộc cách mạng mang tên hoa gì đi chăng nữa cũng không hề tạo ra sự biến đổi xã hội mang tính sâu sắc, toàn diện, hoặc tạo bước ngoặt thay đổi về chất trong mọi lĩnh vực xã hội. Bởi lẽ, những gì đã diễn ra đâu phải là cuộc cách mạng, mà đúng hơn đó là các cuộc biểu tình, bạo loạn chống đối, lật đổ chính quyền do lực lượng thù địch cấu kết với những phần tử cơ hội chính trị đang sống lưu vong ở nước ngoài và trong nước được các nước phương Tây, trực tiếp là Mỹ hà hơi tiếp sức thực hiện. Các cuộc cách mạng này đã không thực hiện đúng chức năng của một cuộc cách mạng thực thụ, đó là: thay thế hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời, lạc hậu bằng một hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn, tiến bộ hơn, mà thực chất chỉ là cuộc lật đổ chế độ bằng các thủ đoạn phi bạo lực kết hợp với bạo lực ở mức độ khác nhau. Ở các “cuộc cách mạng” kiểu này, sự độc tài, bất công chẳng những không mất đi mà còn trầm trọng hơn, đổ máu và bất ổn nhiều hơn. Điển hình là ở U-crai-na, đã hai lần “Cách mạng màu”, nhưng đến nay đâu có sáng sủa gì! Chính trị - xã hội vẫn phức tạp, lãnh thổ bị tách rời, không toàn vẹn, v.v. Bởi vậy, không thể gọi đó là một cuộc cách mạng, dù có mang mầu sắc sặc sỡ, mang tên loài hoa đẹp bao nhiêu đi chăng nữa. Đặc biệt hoa Sen, một loài hoa không những mang vẻ đẹp thuần khiết, đậm triết lý nhân sinh Việt Nam, mà còn ăn sâu, bám rễ vào đời sống tinh thần của người dân Việt Nam thì càng không thể gắn với những âm mưu và hành động đi ngược lợi ích của Quốc gia, dân tộc.
            Để thực hiện cuộc cách mạng này, các thế lực thù địch ở hải ngoại đã cấu kết với một số phần tử cơ hội, bất mãn viết khá nhiều bài tuyên truyền trên nhiều diễn đàn, mạng xã hội, internet, thậm chí cả các chương trình truyền hình, đối thoại, bàn luận khá ầm ĩ về “Cách mạng màu” và khả năng áp dụng ở Việt Nam. Một số đối tượng có dã tâm chống Cộng quyết liệt thì say sưa phân tích thế sự từ cổ chí kim, từ Tây sang Đông, từ chuyện Ai Cập, Li-bi, U-crai-na,... để “soi rọi”, “cảnh báo cho quốc dân đồng bào trong nước”. Họ cho rằng, một cuộc cách mạng dân chủ theo kiểu “mẫu” của phương Tây, có thể tạo ra cuộc “chuyển giao quyền lực êm đềm, không đổ máu” ở Việt Nam. Chúng huênh hoang, bất chấp lý luận về cách mạng xã hội khi lập luận: các cuộc “Cách mạng màu” đều mang tính tự phát của quần chúng, không cần gắn liền với một ý thức hệ, cương lĩnh hay tổ chức nào. Đây chính là yếu tố quan trọng góp phần thành công, mà các cuộc cách mạng trước kia không có. Theo lập luận của họ thì cuộc cách mạng không cần phải có “lý luận”. Đây thực sự là sự mơ hồ. Bởi, như Lê-nin từng nói: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”. Nếu cuộc cách mạng không cương lĩnh, không tổ chức, thì cuộc cách mạng đó vì ai, dựa vào đâu? Chắc chắn là sẽ đưa xã hội vào sự rối ren, tranh giành quyền lực. Thực chất, hai từ “cách mạng” đã bị họ lợi dụng đến mức nguy hiểm.
            Sự thâm độc, xảo quyệt của chiêu bài này càng lộ rõ khi các thế lực phản động và thù địch xác định cụ thể, tỷ mỷ cách làm cho từng giai tầng, lực lượng xã hội ở Việt Nam. Họ còn mạnh bạo tuyên bố, phương tiện chính để tập hợp lực lượng là điện thoại di động thông minh, mạng xã hội, internet, facebook, youtube, v.v. Đây là “vũ khí hữu hiệu” để tập hợp lực lượng nổi dậy. Từ đó, kích động giới trẻ Việt Nam tận dụng lợi thế của sự phát triển công nghệ thông tin để “hành động”. Theo họ, “Cách mạng hoa Sen” ở Việt Nam thuận lợi hơn vì dân số trẻ, lại thực hiện sau đã đúc rút được kinh nghiệm từ các cuộc “Cách mạng màu” ở một số nước nên chính quyền khó bề đối phó. Họ còn hình thành các bước hành động: ban đầu lợi dụng lòng yêu nước kêu gọi mọi người tụ tập ở một số nơi nhạy cảm, như: trước cổng cơ quan chính quyền, đại sứ quán, thành phố lớn, tiếp đó là yêu sách, rồi tiến tới lật đổ chính quyền. Vụ giàn khoan HD - 981 xâm phạm chủ quyền Việt Nam, họ lấy danh nghĩa “Hướng về biển, đảo quê hương” kích động bài xích quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, kêu gọi nhân dân xuống đường biểu tình, hòng gây bạo loạn. Gần đây nhất, nhân vụ cá chết hàng loạt ở 04 tỉnh miền Trung, họ cũng kích động kêu gọi biểu tình, thực hiện cuộc “Cách mạng cá”, v.v. Tuy nhiên, mưu đồ kích động gây biểu tình, bạo động để thực hiện “Cách mạng hoa Sen” của họ dù được che đậy khôn khéo, tinh vi, nhưng vẫn không thể lừa gạt được, sớm bị các cơ quan chức năng Việt Nam phát giác, ngăn chặn. Cao hơn, họ tổ chức biểu tình, phản đối những hạn chế trong điều hành, quản lý kinh tế; tiêu cực xã hội (tham ô, tham nhũng, lãng phí,…) kêu gọi lật đổ chính quyền, rồi phát động phong trào “toàn dân xuống đường,... cứu nước”. Cùng với đó, kêu gọi: “Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đứng ngoài cuộc và bảo vệ nhân dân”. Họ còn tham vọng rằng, khi các cuộc biểu tình được đẩy lên đến đỉnh điểm tại các thành phố lớn, họ kêu gọi nước ngoài can thiệp. Nhìn lại một vụ việc xảy ra trong thời gian qua không khó để nhận thấy bàn tay dơ bẩn của các thế lực thù địch.
            Nhìn lại cuộc “Cách mạng màu”, “Cách mạng đường phố”,… đã diễn ra do các phe đối lập tiến hành để lật đổ chính quyền đương nhiệm đã có thành công nhất định ở một số nước, nhưng cũng thất bại ở nhiều nước. Kiểu cách mạng này đã thất bại ở A-déc-bai-gian, U-dơ-bê-ki-xtan, Bê-la-rút,... còn tại Cư-rơ-gư-xtan, mặc dù chính quyền có thay đổi, song đường lối vẫn thiên về Nga, tức là phương Tây không giành được thắng lợi tuyệt đối. Vậy điều gì quyết định sự xuất hiện và thành bại của những cuộc cách mạng kiểu này? Trước hết, yếu tố nội tại mang tính quyết định. Xuất phát từ những sai lầm của đảng cầm quyền, của chính quyền trong quá trình lãnh đạo, điều hành đất nước, các thế lực đối lập ở nước sở tại được sự tiếp sức của phương Tây đã tạo ra được môi trường nhen nhóm, tổ chức lực lượng, phát động quần chúng. Đối với Việt Nam thì hoàn toàn khác. Cái gọi là cuộc “Cách mạng màu”, hay “Cách mạng hoa Sen” mang danh nghĩa “vì dân, vì nước” nhưng thực chất là hại dân, phản nước sẽ không thể có chỗ đứng, tồn tại. Bởi thứ nhất, Việt Nam không chấp nhận bất cứ tổ chức chính trị đối lập dưới dạng nào; thứ hai nhân dân Việt Nam luôn giữ trọn niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng - ý Đảng, lòng dân hòa quyện làm một; công cuộc đổi mới đất nước đang đi đúng hướng, diện mạo của đất nước đổi thay tích cực theo hướng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Cùng với đó, quyền làm chủ của nhân dân được mở rộng, đảm bảo tốt hơn. Nhiều tổ chức quốc tế, bạn bè thế giới bày tỏ sự mến phục Việt Nam không chỉ anh hùng trong kháng chiến chống ngoại xâm, mà còn “thần kỳ” trong xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ quyền lợi người dân; xếp Việt Nam vào tốp các nước điển hình về xóa đói giảm nghèo thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Đó là sự thật không thể phủ nhận.
            Nhân dân Việt Nam đã và đang tự hào về đất nước mình, được thụ hưởng những giá trị tốt đẹp nhất và rất hạnh phúc với các quyền cũng như nghĩa vụ mà chế độ xã hội chủ nghĩa mang lại. Toàn thể người dân Việt Nam không cần loại “hình vẽ” về cái gọi là “Cách mạng hoa Sen” mà các thế lực thù địch và phản động đang rêu rao, mua chuộc, lừa gạt. Hơn thế, với sự tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, Nhà nước, nhân dân luôn đề cao cảnh giác kiên quyết và chủ động đấu tranh làm thất bại mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch, trong đó có cái gọi là cuộc “Cách mạng hoa Sen” - cuộc Cách mạng ảo tưởng của những kẻ hoang tưởng hòng lật đổ Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
                                                                   MINH ĐỨC


KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN GIÁ TRỊ CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC Ở VIỆT NAM

            Qua 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Vậy mà, một số người lại cố tình phủ nhận những giá trị của chủ nghĩa xã hội và kết quả công cuộc đổi mới đất nước mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực, phấn đấu xây dựng nên - Điều đó thể hiện ý đồ xấu của họ.
            Gần đây, các đối tượng phản động đã phát tán một số bài viết nhằm xuyên tạc, đả kích chủ nghĩa xã hội hiện thực, rằng: “chủ nghĩa xã hội: xã hội chủ nô”, “chủ nghĩa xã hội sản sinh ra những con người và xã hội ích kỷ”; “đi theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin là một sai lầm lịch sử, Việt Nam đang bế tắc về kinh tế”; vu cáo Đảng cộng sản Việt Nam vi phạm nhân quyền, chuyên chính, quan liêu, v.v. Thực chất đó là cách nói, cách nhận xét phiến diện, phi lý, hoàn toàn không có cơ sở lý luận và thực tiễn, nhằm mục đích phủ nhận những giá trị tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội đang hiện hữu ở Việt Nam, tiến tới đòi xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
            Lý luận và thực tiễn khẳng định chế độ xã hội chủ nghĩa đã tạo nên những giá trị mới mà không một chế độ nào trước đó có được; những thành quả cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tạo nên những giá trị của chủ nghĩa xã hội, có sức sống bền vững, đặc biệt là những thành công trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Qua 30 năm đổi mới, đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và tình trạng kém phát triển, kinh tế tăng trưởng khá, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Sức mạnh tổng hợp của đất nước được tăng cường; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
            Trong chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, nhân dân ta được hưởng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; cuộc sống của người dân từng ngày được “thay da, đổi thịt”, từ chỗ phải chịu cảnh “thiếu thốn trăm bề, cơm không đủ no, áo không đủ mặc”, đến nay đã được thụ hưởng đầy đủ các dịch vụ phục vụ cho sự phát triển bản thân một cách toàn diện. Chính sách an sinh và phúc lợi xã hội phát triển khá đồng bộ, đặc biệt là trong vấn đề xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế toàn dân, chế độ ưu đãi người có công với nước, trợ giúp xã hội,… tạo điều kiện để người dân được hưởng thụ nhiều hơn về mọi mặt. Theo thống kê, hiện nay, cả nước có khoảng 8,8 triệu người có công được hưởng chế độ ưu đãi (10% dân số); khoảng 14 triệu người được hưởng trợ cấp thường xuyên; tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 5%, vùng đặc biệt khó khăn chỉ còn dưới 30%; 11 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, 190 nghìn người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, hơn 9 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp và hơn 61 triệu người tham gia bảo hiểm y tế. Việc phổ cập giáo dục tiểu học được hoàn thành vào năm 2010 (99% trẻ em trong độ tuổi học sinh bậc tiểu học được đến trường). Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ, hệ thống cơ sở y tế được hình thành rộng khắp trong cả nước; số bác sĩ, số giường bệnh trên một vạn dân tăng nhanh, đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh cho toàn dân. Tuổi thọ trung bình tăng, đạt 73,5 tuổi vào năm 2015. Các quyền cơ bản của con người trên tất cả các lĩnh vực được đảm bảo bằng pháp luật và trong thực tiễn. Điều 3 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhân, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân…”. Các chính sách dân tộc, tự do tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng hoàn thiện và được bảo đảm trong thực tiễn, v.v. Việc Việt Nam được bầu là thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (khóa 2014 - 2016) là sự ghi nhận và khẳng định những thành tựu to lớn trong việc bảo đảm nhân quyền của Đảng, Nhà nước ta cùng những đóng góp quan trọng về thúc đẩy quyền con người trong khu vực và trên thế giới của Việt Nam.
            Cùng với đó, Đảng, Nhà nước quan tâm đẩy mạnh thực hiện các chuẩn mực giá trị văn hóa và con người Việt Nam, tạo môi trường thuận lợi để phát triển nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ của công dân; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân, gia đình và xã hội. Quan tâm giáo dục, xây dựng con người Việt Nam với những đặc tính cơ bản “yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”, có thế giới quan khoa học, phát huy phẩm chất nhân ái, lối sống có trách nhiệm, “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”, hội tụ những giá trị “chân - thiện - mỹ”; khẳng định và tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp và nhân văn. Hiện nay, những giá trị mới của con người với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, sáng tạo, khát vọng vươn lên của người dân Việt Nam đang từng bước được phát triển; những giá trị truyền thống quý báu của con người Việt Nam, như: yêu nước, đoàn kết, “thương người như thể thương thân”,... đã, đang ngày càng được nuôi dưỡng và phát huy. Hàng vạn những “Gương mặt tiêu biểu” trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, những “Việc tử tế”, những “Tấm gương bình dị mà cao quý”, những nghĩa cử cao đẹp, những chương trình “Trái tim cho em”, “Nâng bước em tới trường”... đang nở rộ, có sức lan tỏa rộng lớn trong toàn xã hội.
            Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà trong Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc thông qua các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ giai đoạn 2016 - 2030 (tháng 10-2015), Việt Nam được đánh giá là biểu tượng đấu tranh giành độc lập dân tộc, là hình mẫu về phát triển kinh tế, điểm sáng xóa đói giảm nghèo. Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon nhấn mạnh: “Nếu tất cả các nước đều nỗ lực như Việt Nam, chắc chắn thế giới sẽ thực hiện thành công các mục tiêu phát triển trong giai đoạn mới”. Đó là một sự ghi nhận khách quan của quốc tế về thành tựu phát triển và giá trị chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Và đó cũng là minh chứng rõ ràng, sống động nhất để phản bác lại những luận điệu xuyên tạc, vu khống của những kẻ chống phá cách mạng Việt Nam.
            Trong khi đó, nhìn vào nội tại xã hội tư bản hiện đại vẫn đang tồn tại đầy rẫy những khuyết tật, mâu thuẫn không thể giải quyết, như: thất nghiệp, đói nghèo, bất bình đẳng, khủng bố, v.v. Theo tổ chức từ thiện Oxfam đánh giá: chỉ 85 người giàu nhất thế giới có giá trị tài sản bằng 3,5 tỉ người nghèo; 1% người giàu nhất thế giới chiếm giữ khoảng 110 nghìn tỷ USD. Hiện nay, ở một số nước tỷ lệ người nghèo khá cao, như: Mê-hi-cô 21,4%; Israel 20,9%; Thổ Nhĩ Kỳ 19,2%; Chi-lê 17,8%; Anh 9,5%. Ngay ở Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới, chênh lệch giàu - nghèo rất lớn: 1% người giàu có giá trị tài sản hơn 90% người nghèo; 7% người giàu nắm giữ tới 63% tài sản quốc gia; 49,7 triệu người dân Mỹ trong diện nghèo, v.v. Đặc biệt, tình trạng khủng bố, bạo lực, tội phạm, an ninh, phân biệt chủng tộc, sắc tộc diễn ra tràn lan, kéo dài không dứt, nhất là ở các nước phương Tây, Mỹ, khu vực Trung Đông.
            Phủ nhận giá trị của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một thủ đoạn nham hiểm được các thế lực thù địch thường dùng với mục tiêu hòng phủ nhận, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Song, đó chỉ là sự ảo tưởng của những kẻ ngông cuồng, với bản chất hiếu chiến, xâm lược. Bởi, những thành quả đạt được và giá trị tốt đẹp mà chủ nghĩa xã hội đã mang lại cho nhân dân đang hiện hữu ở Việt Nam. Đó là điều không thể phủ nhận! Cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng đang diễn ra quyết liệt, cam go, phức tạp. Thực chất đó là cuộc đấu tranh giai cấp dưới hình thức mới, trong điều kiện mới. Đối với nhân dân ta đây là cuộc đấu tranh chính nghĩa để bảo vệ chân lý, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì thế, chủ động và tích cực tham gia cuộc đấu tranh này là trách nhiệm cao cả của tất thảy người Việt Nam yêu nước ở trong nước và nước ngoài, trước hết là cán bộ, đảng viên./.
                                                                        SỸ HỌA - QUANG HỢP


Thứ Tư, 28 tháng 9, 2016

CÁC BỊ CÁO ĐÃ VI PHẠM PHÁP LUẬT VÀ CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ

          Phiên tòa phúc thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Hữu Vinh và bị cáo Nguyễn Thị Minh Thúy về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”, theo Điều 258, Bộ luật Hình sự, vừa khép lại. Sau khi xem xét toàn diện vụ án, Hội đồng phúc thẩm quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm với mức án 5 năm tù giam đối với Nguyễn Hữu Vinh và 3 năm tù giam đối với Nguyễn Thị Minh Thúy.

            Sẽ chẳng có gì phải bàn nếu không có chuyện mấy ngày qua, trên một số trang mạng ở nước ngoài đã đăng ý kiến của một vài tổ chức, cá nhân cho rằng: Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy vô tội; bản án mà tòa đưa ra là trái luật... Giọng điệu trên chứng tỏ những tổ chức, cá nhân đưa ra ý kiến chẳng hiểu gì về pháp luật Việt Nam và Công ước quốc tế.
            Điều 258, Bộ luật Hình sự số 15/1999/QH10 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và có hiệu lực từ ngày 1-1-2010 quy định về:  Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, đã nêu rõ: “1. Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.  2. Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.
            Theo hồ sơ vụ án, từ đầu năm 2014, Vinh đã lập ra blog “Chép sử việt” và blog “Dân quyền”. Để duy trì hoạt động của hai blog này, Vinh đã cung cấp mật khẩu truy cập và chia sẻ cho bị cáo Thúy một số quyền quản trị... Theo xác định của Bộ Thông tin và Truyền thông, từ năm 2014 đến khi bị bắt, trên hai blog này Vinh đã đăng hơn 2.000 bài viết, trong đó có 24 bài có nội dung sai sự thật, không có căn cứ, tuyên truyền xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, bôi nhọ các cá nhân, làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan, tổ chức; đưa ra cái nhìn bi quan một chiều, gây hoang mang, lo lắng, làm ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước... Hành vi của Vinh và Thúy rõ ràng đã vi phạm Điều 258, Bộ luật Hình sự hiện hành của Việt Nam.
            Không chỉ vậy, hành vi của Vinh và Thúy cũng không phù hợp với Công ước quốc tế. Điều 19 của Công ước quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 16-12-1966 và có hiệu lực từ ngày 23-3-1976 quy định: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận” và: “Trong việc hành xử nhân quyền và thụ hưởng tự do, mọi người chỉ phải chịu những hạn chế do luật định, và những hạn chế này chỉ nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng nhân quyền, và quyền tự do của những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng về luân lý, trật tự công cộng, và nền an sinh chung trong một xã hội dân chủ.” (Điều 29 Công ước quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị).
            Trên thực tế, không một quốc gia nào trên thế giới này có quyền tự do ngôn luận tuyệt đối, quyền này thường được hạn chế bởi các quy định của pháp luật phù hợp với thực tế của từng quốc gia. Ở Việt Nam, mọi công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, nhưng quyền này phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật. Công dân không được lợi dụng quyền này để thông tin sai sự thật, xuyên tạc, bịa đặt, nói xấu làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín của tập thể, cá nhân, xâm phạm đến lợi ích của người khác và lợi ích quốc gia... Mọi hành vi trái với các quy định đó đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật.
            Rõ ràng, những hành vi của Vinh và Thúy đã vi phạm pháp luật Việt Nam và không phù hợp với Công ước quốc tế. Hành vi ấy không chỉ gây hoang mang trong dư luận; ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín của cá nhân, tổ chức, làm giảm sút lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, gây nhiễu loạn xã hội mà còn gây ảnh hưởng đến lợi ích của quốc gia, dân tộc... Do đó, việc các cơ quan bảo vệ pháp luật của Việt Nam đưa Nguyễn Hữu Vinh và Nguyễn Thị Minh Thúy ra xét xử và tuyên phạt mức án như đã nêu là hoàn toàn đúng luật pháp.
                                                                               KIM NGỌC


KHÔNG THỂ XÓA MỜ HÌNH ẢNH CAO ĐẸP BỘ ĐỘI CỤ HỒ

          Những năm gần đây, một vài thông tin, hình ảnh về quân nhân vi phạm kỷ luật, pháp luật đã được tán phát với số lượng nhiều hơn kể từ khi có internet và mạng xã hội. Song có một điều bất thường là trong số đó, có không ít vụ việc thông tin bị tô vẽ, nhào nặn, bóp méo… nhằm bôi nhọ, xuyên tạc hình ảnh và phẩm chất truyền thống cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ. Cần nhìn nhận và xử lý như thế nào đối với loại thông tin này?

            Không thể đánh đồng cá biệt và bản chất
            Gần đây, có một số vụ việc được chia sẻ, tán phát nhiều trên mạng xã hội như: Một vài chiến sĩ cũ đánh chiến sĩ mới; cán bộ, sĩ quan uống rượu say không làm chủ được hành vi; sĩ quan làm công tác quản lý doanh nghiệp, quản lý kinh tế có sai phạm…
            Trước hết, cần thẳng thắn nhìn nhận, một số vụ việc được tán phát là có thật. Nhưng không ít vụ việc đã bị tô vẽ, “thêm mắm thêm muối”, “làm mới thông tin đã cũ”, cố tình bôi đen sự việc.
            Vụ việc một số chiến sĩ cũ đánh chiến sĩ mới đã xảy ra nhiều năm trước, chiến sĩ vi phạm đã bị xử lý kỷ luật nghiêm khắc và đã xuất ngũ nhưng mấy năm gần đây, cứ đến mùa tuyển quân, ra quân huấn luyện chiến sĩ mới, những người có ý đồ xấu lại tán phát clip cũ này lên mạng xã hội. Họ cố tình “làm mới” sự kiện kèm theo những bình luận, thông tin đi kèm dễ khiến dư luận hoang mang, lo ngại về môi trường kỷ luật quân đội.
            Tại vụ việc liên quan đến một lái xe trên địa bàn thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương vừa qua thì người tung clip đã cố tình cắt bỏ đoạn đầu về những hành vi vi phạm pháp luật và cố tình khiêu khích của người lái xe, chỉ đưa đoạn sau kèm những thông tin, bình luận về sai phạm của một cán bộ quân đội để người xem hiểu sai lệch sự việc. Có vụ việc tai nạn giao thông liên quan tới xe của đơn vị quân đội, ngay cả khi lỗi thuộc về người va chạm với xe quân sự và đơn vị quân đội có trách nhiệm giải quyết nghiêm túc, người ta vẫn tung ra những thông tin sai sự thật để gây sức ép cho đơn vị bộ đội: “Xe biển đỏ bỏ chạy”, “vi phạm nhưng thiếu trách nhiệm”…
            Sự xuyên tạc, bịa đặt nguy hiểm
            Thời gian gần đây, tòa soạn Báo Quân đội nhân dân nhận được thắc mắc của một số bạn đọc xung quanh cái gọi là “tâm thư” của "thạc sĩ Phạm Hồng Thúy” quê ở huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên gửi cán bộ, chiến sĩ quân đội và công an, kêu gọi mọi người có trách nhiệm trước “vận mệnh đất nước”. Trong bức tâm thư được tán phát trên mạng xã hội, người viết xưng là "con một trung tướng quân đội, mẹ là chủ nhiệm đoàn văn công Tổng cục Chính trị, bản thân làm việc cho một tập đoàn Nhà nước" nên am hiểu mọi chuyện rồi từ đó tô vẽ ra những “mối nguy hiểm” đối với vận mệnh dân tộc, quy kết bậy bạ Đảng, Nhà nước ta bán nước, bán biển đảo, quân đội ta “hèn nhát”. Bức thư còn đưa ra những thông tin xuyên tạc về vụ máy bay rơi và các nội dung đối ngoại quân sự...
            Những người có kinh nghiệm chỉ cần đọc lướt qua vài dòng sẽ biết ngay đó là một bức thư giả mạo, có nội dung phản động và không phí thời gian đọc tiếp. Song không ít người thiếu hiểu biết vẫn tin theo và chia sẻ trên mạng xã hội. Trao đổi với phóng viên Báo Quân đội nhân dân, các cơ quan chức năng của quân đội đều khẳng định đã xác minh, trên thực tế không có thạc sĩ Phạm Hồng Thúy nào ở Văn Giang, Hưng Yên. Tỉnh này cũng không có gia đình nào bố là trung tướng, mẹ là chủ nhiệm đoàn văn công quân đội như thông tin bịa đặt.
Báo Quân đội nhân dân cũng từng bị kẻ xấu xuyên tạc về một số nội dung tuyên truyền. Ngay cả chuyên mục “Làm thất bại chiến lược diễn biến hòa bình” được bạn đọc cả nước hoan nghênh, thể hiện đúng chức năng chiến đấu trên mặt trận chính trị tư tưởng nhưng kẻ xấu vẫn xuyên tạc, chống “Diễn biến hòa bình” là chống… “nhân dân”, chống những “người yêu nước” cất tiếng nói vì “công lý”. Chúng đã cố tình tiếm danh, đánh đồng giữa nhân dân với số ít những kẻ cơ hội chính trị, chống phá đất nước.
            Thời gian gần đây, được sự hậu thuẫn của các thế lực từ nước ngoài, một số đối tượng còn phát động cái gọi là cuộc thi viết “Cộng sản và tôi” để nói xấu Đảng, Nhà nước. Tại đây, chúng còn tung ra nhiều bài viết nói xấu Quân đội ta, cho rằng “không có quân đội anh hùng”, không còn Bộ đội Cụ Hồ.
            Ngay cả một số cơ quan truyền thông, một số nhà báo do thiếu thông tin và chủ quan, đơn giản đã vô hình trung có những thông tin sai trái, ảnh hưởng xấu tới uy tín, danh dự của Quân đội nhân dân Việt Nam. Vụ việc một nhà báo bị thu thẻ nhà báo do tùy tiện, thiếu suy nghĩ đưa thông tin xúc phạm danh dự, uy tín Quân đội nhân dân Việt Nam gần đây đã để lại nhiều bài học đáng suy nghĩ về trách nhiệm xã hội của nhà báo khi tiếp nhận và xử lý thông tin.
            Theo thống kê của Cục Công nghệ Thông tin (Bộ Quốc phòng), hiện có tới hàng trăm trang web, facebook giả mạo, đưa thông tin xuyên tạc liên quan tới lãnh đạo quân đội và các tổ chức liên quan tới quân đội. Sự xuyên tạc, hạ thấp uy tín, hình ảnh quân đội đối với các thế lực phản động chính là nhằm làm giảm niềm tin, chia rẽ quân đội với nhân dân, nhân dân với quân đội, phi chính trị hóa quân đội.
            Không thể xóa nhòa phẩm chất cao đẹp
            Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục và rèn luyện không bao che khuyết điểm, nương nhẹ cho những hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật. Những sai phạm ấy, dù là cá biệt song khi bị tán phát trên internet đã ảnh hưởng xấu tới uy tín, danh dự của Quân đội nhân dân Việt Nam.Chủ tịch Hồ Chí Minh, người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân ta từng căn dặn: “Phải nâng cao kỷ luật, giữ vững kỷ luật. Những cán bộ có ưu điểm thì phải khen thưởng; người làm trái kỷ luật thì phải phạt. Nếu không thưởng thì không có khuyến khích; nếu không có phạt thì không giữ vững kỷ luật”; “Các cán bộ từ chỉ huy trở xuống phải cố gắng hơn nữa trong công tác, trong học tập, từ bước đi, từ cái chào đều phải chính quy hóa, cán bộ phải tiến trước và làm gương mẫu cho các chiến sĩ".
            Các vụ việc vi phạm tán phát trên internet đều được lãnh đạo, chỉ huy các cấp của Quân đội ta xử lý nghiêm minh theo đúng Điều lệnh Quản lý bộ đội, kỷ luật quân đội, kỷ luật của Đảng và pháp luật Nhà nước. Đối với người sử dụng internet và mạng xã hội, không nên nhầm lẫn giữa hiện tượng cá biệt và bản chất, một vài sự việc cá biệt không thể làm nhòa mờ hình ảnh, phẩm chất cao đẹp của Quân đội nhân dân dân Việt Nam, một đội quân luôn từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, phục vụ.
            Nhưng, internet cũng chính là kênh thông tin, là sự phản chiếu và giám sát to lớn từ xã hội để mỗi quân nhân, mỗi cá nhân và tập thể không một phút giây nào được phép xao nhãng, lơ là việc tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất người quân nhân cách mạng, giữ gìn và phát huy bản chất tốt đẹp truyền thống Bộ đội Cụ Hồ. Bản chất ấy không tự nhiên có được mà phải luôn gắn với sự rèn luyện từ những điều nhỏ nhất. Không phải ngẫu nhiên mà hiện nay, toàn quân ta tiếp tục phát động và đẩy mạnh phong trào thi đua “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”.
            Qua các sự việc, cũng là bài học để mỗi quân nhân và các đơn vị quân đội nêu cao trách nhiệm chính trị, quán triệt và thực hiện nghiêm túc các quy định của Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị về bảo vệ chính trị nội bộ, các quy định về sử dụng internet, thông tin điện tử, viễn thông. Đặc biệt, cần hết sức thận trọng, thực hiện đúng các quy định khi đăng tải, chia sẻ, bình luận những thông tin, hình ảnh liên quan đến quân đội trên internet, mạng xã hội.
                                                            NGUYỄN VĂN MINH