Chủ Nhật, 29 tháng 10, 2017

TƯ TƯỞNG TRUNG BÌNH CHỦ NGHĨA - CÁI BẪY CỦA SỰ TRÌ TRỆ, SUY THOÁI, LẠC HẬU

Tư tưởng trung bình chủ nghĩa được xác định là một trong những biểu hiện của “tự diễn biến", "tự chuyển hóa” trong nội bộ theo Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng.
Đây là một trạng thái tư tưởng, một lề lối công tác, một cách thức thể hiện của các cán bộ, đảng viên khiến tổ chức đảng, cơ quan Nhà nước dễ lâm vào trạng thái trì trệ, mất tính tiền phong, tính chiến đấu, dẫn tới làm suy giảm thậm chí triệt tiêu vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của cơ quan. Trên bình diện quốc gia, tư tưởng trung bình chủ nghĩa có thể dìm một quốc gia thụt lùi dần trong lúc các nước khác phát triển như vũ bão. 
Tư tưởng trung bình chủ nghĩa thực chất là một dạng của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội. Tư tưởng này có cơ hội tồn tại và trở thành phổ biến trong cơ chế phân phối theo kiểu bình quân chủ nghĩa; trong cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp; cơ chế đánh giá hiệu quả công việc theo kiểu cào bằng, không rõ trách nhiệm cá nhân.
Các lãnh tụ cách mạng đã chỉ ra những nguy cơ từ các nhóm trung bình, hạng người trung bình trong tổ chức. Theo V.I.Lenin, trong quan hệ xã hội, chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh biểu hiện thành nhóm trung gian, nhóm trung bình chủ nghĩa. Đây là những người thỏa mãn và an tâm với hoàn cảnh của mình, xa lạ với hết thảy mọi ước mơ “viển vông”, nhưng biết rất rõ mình muốn cái gì. Họ cầu cạnh danh lợi và là những kẻ tôi đòi để đạt danh lợi trong “hòa bình”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, tư tưởng trung bình chủ nghĩa cơ bản thể hiện ở nhận thức và thái độ của con người. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “bất kỳ nơi nào có quần chúng, thì nhất định có ba hạng người: Hạng hăng hái, hạng vừa vừa và hạng kém, hạng ở giữa nhiều hơn hết, hạng hăng hái và hạng kém đều ít hơn …”. Hạng người vừa vừa, hạng ở giữa chính là biểu hiện của tư tưởng trung bình chủ nghĩa. Hạng người này thường chiếm số đông trong tập thể, do đó, hình thức biểu hiện của nó rất đa dạng. Tư tưởng trung bình chủ nghĩa, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không chỉ có trong phân phối, mà biểu hiện cả trong chính trị, đạo đức, lối sống.
Sẽ có không ít người lầm tưởng rằng những người có tư tưởng trung bình chủ nghĩa trong một cơ quan, một tổ chức chỉ đơn giản là những người ít có đóng góp, nhưng là người “vô hại”. Điều này hoàn toàn sai lầm. Thực tế đã chứng minh, tư tưởng trung bình chủ nghĩa chính là nguy cơ rất lớn gây ra sự trì trệ, suy thoái, tụt hậu của các tổ chức, đảng phái, tới cả quốc gia. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có nguyên nhân do áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch tập trung, bao cấp mà trong đó tư tưởng trung bình chủ nghĩa có cơ hội tồn tại. Thực tế, những người trung bình chủ nghĩa là một lực cản lớn cho các cơ quan, tổ chức, đó là vì:
Thứ nhất, nếu tạm mặc định kiến thức, trình độ học vấn của mọi cá nhân trong một cơ quan, tổ chức là như nhau thì những người có động lực cống hiến, làm việc nhiều hơn chắc chắn sẽ vươn lên có một năng lực tốt hơn. Những người trung bình chủ nghĩa lúc nào cũng muốn an nhàn, không có động lực cống hiến, không có động cơ phấn đấu làm việc hết mình, không nỗ lực để hoàn thành tốt hơn công việc do mình đảm nhiệm, mà chỉ làm cho xong chuyện. Họ không chỉ “giậm chân tại chỗ” mà còn sẽ dần tụt dốc so với chính họ do không hết mình trong công việc và tụt hậu trước nhu cầu phát triển của xã hội, yêu cầu của công việc. Yêu cầu đặt ra đối với chất lượng hoạt động của các cơ quan, đơn vị, đặc biệt là các cơ quan hành chính Nhà nước ngày càng cao, sự “giậm chân tại chỗ” cũng có nghĩa là ngày càng không đáp ứng được yêu cầu của công việc.
Thứ hai là tuy rất trì trệ nhưng những người trung bình chủ nghĩa vẫn giữ chắc vị trí công việc, giữ chắc biên chế Nhà nước. Sự tồn tại của họ khiến những người mới tốt hơn không có cơ hội để tham gia vào cơ quan, tổ chức, đơn vị đó nữa.
Thứ ba, những người trung bình chủ nghĩa không thể tồn tại được trong một môi trường, một tổ chức giàu động lực và khát vọng. Vì thế, để tồn tại, họ buộc phải ngăn trở cái mới, ngăn trở những nỗ lực buộc họ phải thay đổi. Họ có xu hướng liên thủ để bảo vệ một môi trường làm việc “làng nhàng”, “lờ nhờ”, muốn một sự “yếu kém ổn định” của tổ chức, cơ quan, đơn vị, còn hơn là tạo ra những sự đột phá, thay đổi để rồi họ không tồn tại được. Họ không thích những cán bộ có tư duy đột phá, những đồng nghiệp xuất sắc, những đồng nghiệp có tinh thần đấu tranh thẳng thắn, vì đó là những người có thể sẽ tạo ra những sự thay đổi tích cực. Chính vì thế, họ gièm pha, ngăn trở sự phát triển của những người này.     
Đối với tổ chức đảng, nếu bộ phận đảng viên có tư tưởng trung bình chủ nghĩa càng nhiều thì tính tiền phong, chiến đấu, vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng chắc chắn sẽ giảm sút. Có thể dễ dàng nhận ra hiện nay có một bộ phận không nhỏ đảng viên chưa thể hiện được những phẩm chất mẫu mực; chỉ thích làm việc dễ, nhàn hạ, mang lại nhiều quyền lợi, lảng tránh việc khó, né tránh những nơi khó khăn, gian khổ; chỉ nghĩ tới quyền lợi của mình, không đếm xỉa tới lợi ích của tập thể, của cộng đồng, của đất nước. Có không ít cá nhân vào Đảng chỉ với mục đích rất thực dụng là tạo thuận lợi để kiếm một suất biên chế Nhà nước. Đó là những biểu hiện nếu không được khắc phục triệt để thì sẽ dẫn tới việc người dân mất dần niềm tin vào đảng viên, rồi cả tổ chức đảng.    
Trên bình diện quốc gia, các nhà kinh tế học đã chỉ ra một cái bẫy mà các nước đang phát triển rất dễ sa vào, đó là “cái bẫy thu nhập trung bình”. Nghĩa là tình trạng khi một quốc gia đạt đến mức thu nhập bình quân nhất định (do những lợi thế sẵn có) và giậm chân tại mức thu nhập ấy mà không thể vượt qua ngưỡng đó để trở nên giàu có hơn. Để vượt qua được cái bẫy trung bình ấy cần những nỗ lực rất lớn, cần sự sáng tạo, đổi mới không ngừng để vươn lên chiến thắng trong cạnh tranh kinh tế toàn cầu. Muốn thoát được “bẫy thu nhập trung bình” cần phải có một nền kinh tế hiệu quả, mà muốn thế trước hết phải có một nền quản trị quốc gia hiệu quả.
Nền quản trị quốc gia không thể hiệu quả nếu chỉ có những chiến lược, chủ trương, quyết sách đúng đắn của Đảng, của Nhà nước ở “thượng tầng”, trong khi ở “hạ tầng”, ở cơ sở việc triển khai lại không đồng bộ, không với quyết tâm cao nhất, không có trách nhiệm cao nhất. Trong những cản lực ở cơ sở thì những cản lực từ đội ngũ cán bộ, nhân viên Nhà nước “sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về” là không nhỏ. Bộ phận cán bộ, nhân viên ấy có năng lực làng nhàng, thiếu trách nhiệm, thiếu sâu sát rất dễ nhiễm thói quan liêu, đưa ra những quy định trên trời gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp.  
Trong suốt quá trình đổi mới, Đảng ta luôn kiên trì phê phán tư tưởng trung bình chủ nghĩa. Việc xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xét về nguyên tắc, là xóa bỏ tư tưởng trung bình chủ nghĩa. Tuy vậy, tư tưởng này cho đến nay vẫn tồn tại khá phổ biến gây rất nhiều nguy cơ như đã phân tích ở trên. Để loại bỏ tư tưởng này trong sinh hoạt Đảng, chấn chỉnh, nâng cao phẩm chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên thì cần phải thực hiện những việc sau:
Thứ nhất là mỗi cán bộ, đảng viên phải xác định lại tư tưởng, động lực lao động của mình; phải sống có lý tưởng, có hoài bão; nuôi dưỡng khát vọng hoàn thiện bản thân, có khát vọng cống hiến cho cộng đồng, cho đất nước. 
Thứ hai là trong công tác tổ chức cán bộ cần phải đề ra được những tiêu chí khách quan, khoa học để đánh giá đúng năng lực của cán bộ, đảng viên; đẩy mạnh luân chuyển cán bộ; mạnh dạn thay thế những cá nhân yếu kém, trung bình bằng những cá nhân mới tốt hơn. Cần chọn được những người đứng đầu có năng lực quản lý, lãnh đạo, có chuyên môn tốt, giàu nhiệt huyết, từ đó để làm đầu tàu xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh.
Một trong những nội dung trọng tâm của Hội nghị Trung ương 6, khóa XII của Đảng vừa qua là bàn về việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh gọn đầu mối, tinh giản biên chế. Việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy, biên chế ấy là thực sự cấp thiết. Nhưng muốn thực hiện thành công thì phải có một quyết tâm rất lớn, cần một nhận thức đúng đắn của toàn thể cán bộ, đảng viên, việc tinh giản biên chế chắc chắn sẽ động chạm đến bộ phận cán bộ, đảng viên thuộc “nhóm yếu kém” và “nhóm trung bình”.
Tính tiền phong, gương mẫu là thuộc tính của Đảng ta. Năm 1945, Đảng ta chỉ có khoảng 5.000 đảng viên mà có thể vận động toàn dân làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám trên cả nước thành công vang dội, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Đó là vì 5.000 đảng viên ấy thực sự là 5.000 cá nhân mẫu mực, là những ngọn cờ để quần chúng đi theo. Theo công bố vào tháng 3-2016, Đảng ta đã có 4,65 triệu đảng viên. Nếu tất cả đảng viên đều nêu cao tinh thần tiền phong, “đảng viên đi trước làng nước theo sau” thì chắc chắn sức sống, sức chiến đấu của Đảng ta sẽ mạnh mẽ hơn rất nhiều, sẽ lãnh đạo nhân dân đưa đất nước ta tăng tốc trên quá trình phát triển.

HỒ QUANG PHƯƠNG

INTERNET KHÔNG PHẢI LÀ CÔNG CỤ KÍCH ĐỘNG HẬN THÙ, CHIA RẼ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ

Thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, các phương tiện truyền thông, đặc biệt là internet ngày càng trở thành phương tiện hữu ích đối với đời sống con người. Không chỉ góp phần bảo đảm tốt hơn quyền tự do ngôn luận, các phương tiện truyền thông hiện đại nói chung, internet nói riêng còn giúp các quốc gia trên thế giới thêm hiểu và ngày càng xích lại gần nhau hơn.
Thế nhưng những năm qua, nhất là thời gian gần đây, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những ưu thế của internet để gia tăng hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, cổ xúy cho tư tưởng phân biệt chủng tộc, kích động hận thù, phá hoại đoàn kết quốc tế.
Trên internet, các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội chính trị, phản động lập ra hàng nghìn website, trang mạng xã hội, diễn đàn trực tuyến... để sử dụng như một công cụ chủ yếu tuyên truyền, xuyên tạc, bịa đặt nhằm kích động hận thù, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, phá hoại mối quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, những sự kiện “nóng” thu hút sự quan tâm của dư luận, như: Dân tộc, tôn giáo; Biển Đông; phân giới cắm mốc giữa Việt Nam với các quốc gia láng giềng; ô nhiễm môi trường; phòng, chống tham nhũng v.v.. được các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng chống phá.
Còn nhớ, sau khi Hiệp ước về biên giới đất liền được ký kết (ngày 30-12-1999), Việt Nam và Trung Quốc đã cùng nhau phân giới cắm mốc trên thực địa. Đây là việc làm cần thiết và đã được Việt Nam và Trung Quốc thực hiện chặt chẽ, thỏa đáng, thấu tình đạt lý, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản, đáp ứng các yêu cầu đặt ra. Thế nhưng trong quá trình tiến hành, một số tổ chức, cá nhân phản động ở trong và ngoài nước qua internet đã tung ra hàng loạt những luận điệu xuyên tạc, thông tin trái chiều gây nhiễu loạn dư luận. Họ cho rằng “Trung Quốc giành được một số vùng lãnh thổ mà trước đó Việt Nam tuyên bố chủ quyền”. Có ý kiến cho rằng, trong phân giới, cắm mốc với Trung Quốc, Việt Nam “chịu nhiều thua thiệt”. Có kẻ còn dựng chuyện, bịa đặt rằng “Chính phủ Việt Nam nhường đất cho Trung Quốc”, “Việt Nam đã mất một phần lãnh thổ trong quá trình phân giới, cắm mốc với Trung Quốc”... Rồi từ những thông tin xuyên tạc, bịa đặt ấy, qua internet, họ kích động nhân dân Việt Nam “cần đòi lại bằng vũ lực...”. Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần khẳng định, những thông tin ấy là thất thiệt, vô căn cứ. Các thế lực thù địch, một số tổ chức, cá nhân phản động muốn lợi dụng sự kiện ấy để tuyên truyền xuyên tạc làm giảm sút niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng và Nhà nước Việt Nam, kích động bạo lực, gây chia rẽ mối quan hệ đoàn kết hữu nghị giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam-Trung Quốc.
Tương tự quá trình đàm phán thực hiện Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985 và Hiệp ước bổ sung năm 2005 về biên giới, phân giới, cắm mốc giữa Việt Nam và Campuchia đã và đang được tiến hành hoàn toàn hợp pháp, công khai, minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế. Thế nhưng lợi dụng một số vấn đề nảy sinh trong công tác phân giới, cắm mốc giữa Việt Nam và Campuchia, những người có tư tưởng thù địch, một số phần tử chống đối, cực đoan phản động đã qua internet tán phát thông tin, tuyên truyền xuyên tạc, kích động, lôi kéo những người dân thiếu thông tin và kiến thức về quá trình đàm phán, phân giới, cắm mốc giữa hai nước để tiến hành các hoạt động phá hoại. Trên mạng xã hội, chúng cho rằng Campuchia đã “cúi đầu quá nhanh” trước Việt Nam; “Việt Nam tạo áp lực với Campuchia”... Chưa hết, qua mạng xã hội, chúng còn vu cáo Việt Nam sử dụng bản đồ giả, ngụy tạo thông tin về đường biên giới với Campuchia... Từ những thông tin xuyên tạc, bịa đặt ấy chúng không nhằm mục đích nào khác là gây sự hiểu lầm, tạo hiềm khích dân tộc, gieo rắc những tư tưởng thù địch, hoài nghi về mối quan hệ tốt đẹp của hai dân tộc, hai Chính phủ và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia.
Hay trong sự cố môi trường biển ở các tỉnh miền Trung, ngay sau khi xảy ra sự việc, lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta đã chỉ đạo quyết liệt, triển khai kịp thời các biện pháp hỗ trợ, ổn định cuộc sống của người dân vùng bị thiệt hại... Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, các cơ quan khoa học khẩn trương vào cuộc với tinh thần thận trọng, khoa học, chính xác, khách quan và đúng pháp luật; xác định rõ nguyên nhân, đối tượng gây ra sự cố và có giải pháp xử lý kịp thời. Thế nhưng thông qua internet, với chiêu trò xuyên tạc, bịa đặt, cắt dán, gán ghép thông tin, các thế lực thù địch đã tạo nên sự nhiễu loạn trên truyền thông xã hội, làm cho thật giả, trắng đen lẫn lộn. Chúng vu cáo rằng, các cấp lãnh đạo “vì lợi ích nhóm mà bỏ quên môi trường”, “biết nguyên nhân gây ô nhiễm nhưng che giấu thông tin”, "bao che cho nhà thầu nước ngoài"... Chúng xuyên tạc chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, tuyên truyền, kích động người dân “tẩy chay” các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà thầu đến từ Trung Quốc và Đài Loan... Chưa dừng ở đó, chúng còn soạn ra cái gọi là "tâm thư”, “khuyến nghị”... gửi ra nước ngoài kêu gọi các tổ chức quốc tế can thiệp.
Trên đây chỉ là một vài ví dụ dẫn ra để thấy internet đang bị những đối tượng có tư tưởng thù địch, phản động triệt để sử dụng làm công cụ tuyên truyền kích động hận thù, chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước và các tổ chức quốc tế. Những hành động đó đã vi phạm pháp luật Việt Nam và công ước quốc tế.
"Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị" năm 1966 quy định rất rõ về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Khoản 2, Điều 19 của Công ước quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tùy theo sự lựa chọn của họ”. Tuy nhiên, cần nhớ rằng những quyền ấy không phải là quyền tuyệt đối. Khoản 3, Điều 19 "Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị" năm 1966 ghi rõ: “Việc thực hiện những quyền quy định tại Khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc hưởng thụ quyền này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định (những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật) để tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội". Năm 1982, Việt Nam tham gia "Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị". Từ đó đến nay, Việt Nam luôn quan tâm nội luật hóa các quy định của công ước vào hệ thống pháp luật quốc gia.
Ở Việt Nam, quyền tự do ngôn luận, báo chí của người dân được quy định rất rõ. Tại Điều 25 của Hiến pháp năm 2013 nêu: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Điều 9, Luật Báo chí Việt Nam 2016 nghiêm cấm: “1. Đăng, phát thông tin chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nội dung: a) Xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền nhân dân; b) Bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; c) Gây chiến tranh tâm lý. 2. Đăng, phát thông tin có nội dung: a) Gây chia rẽ giữa các tầng lớp nhân dân, giữa nhân dân với chính quyền nhân dân, với lực lượng vũ trang nhân dân, với tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội; b) Gây hằn thù, kỳ thị, chia rẽ, ly khai dân tộc, xâm phạm quyền bình đẳng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; c) Gây chia rẽ người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa người theo các tôn giáo khác nhau, chia rẽ các tín đồ tôn giáo với chính quyền nhân dân, với tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội; xúc phạm niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; d) Phá hoại việc thực hiện chính sách đoàn kết quốc tế”. Những quy định ấy đều tương thích với "Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị".
Trên thế giới, không một quốc gia nào dung túng, bao che cho những hành động sử dụng internet làm công cụ để xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và tạo mọi điều kiện để người dân thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do internet trên cơ sở tuân thủ công ước quốc tế và pháp luật Việt Nam. Chính phủ Việt Nam luôn chủ động phối hợp, tích cực hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế để đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin, phát triển internet và các phương tiện truyền thông hiện đại. Nhưng Việt Nam cũng làm hết sức mình để ngăn chặn thông tin xấu độc, thông tin vi phạm pháp luật Việt Nam và công ước quốc tế. Việt Nam luôn mong muốn chung tay với các nước, các tổ chức quốc tế xây dựng môi trường internet lành mạnh, an toàn, hữu ích ở Việt Nam và toàn cầu. Cũng như mọi quốc gia trên thế giới, Việt Nam lên án mạnh mẽ, đấu tranh kiên quyết, không cho phép bất kỳ ai được lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do internet để tán phát những thông tin xuyên tạc, bịa đặt, những luận điệu thù hận, phỉ báng, kích động có thể gây căng thẳng, gây chia rẽ đoàn kết và đưa đến xung đột. Mọi hành vi vi phạm trong lĩnh vực sử dụng internet và phương tiện truyền thông đều bị xử lý nghiêm minh theo pháp luật.
SONG HÙNG



Thứ Ba, 24 tháng 10, 2017

LỢI DỤNG DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN - HAI MŨI TẤN CÔNG NGUY HIỂM

Thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam, dân chủ, nhân quyền luôn là hai vấn đề chiến lược được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự xã hội (ANCT-TTXH), tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tạo sức ép từ bên ngoài, dựng “ngọn cờ” từ bên trong
Sử dụng hai chiêu bài này, các thế lực thù địch tiến hành rất nhiều thủ đoạn nguy hiểm. Trước hết, họ vu cáo, xuyên tạc, bóp méo tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, ra sức tuyên truyền, cổ súy cho dân chủ tư sản phương Tây. Họ cho rằng, chế độ xã hội ở Việt Nam là độc tài, toàn trị. Họ lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, sơ hở, thiếu sót của ta trong quản lý, điều hành đất nước hoặc những vấn đề bức xúc trong xã hội để lôi kéo, kích động nhân dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất ANCT-TTXH. Họ ra sức tuyên truyền, cổ vũ, cường điệu hóa các giá trị dân chủ tư sản, tuyệt đối hóa tính toàn cầu, tính phổ cập của quyền con người với luận điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích cộng đồng, quốc gia”, tuyệt đối hóa các giá trị phổ quát về quyền con người theo mô hình của phương Tây; xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm quyền cơ bản của con người, đàn áp “những người bất đồng chính kiến” v.v..  Từ chỗ cho rằng, quyền con người là tuyệt đối, bất biến, các thế lực thù địch đã giải thích nhân quyền là tự do thực hiện quyền mà không bị cấm đoán, không bị giới hạn nhằm cổ suý hoạt động lợi dụng nhân quyền vi phạm pháp luật nước ta. Họ đặc biệt đẩy mạnh các chiến dịch phá hoại tư tưởng khi nước ta diễn ra những sự kiện chính trị quan trọng hay khi Việt Nam tham gia các hội nghị quan trọng của Liên hợp quốc hòng hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.
Họ dùng dân chủ, nhân quyền làm điều kiện để gây sức ép, can thiệp vào nội bộ nước ta. Họ tìm cách gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với các điều kiện về dân chủ, nhân quyền trong quan hệ ngoại giao với Việt Nam; đòi nước ta phải chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cải cách chính trị, cải cách dân chủ, pháp luật theo kiểu phương Tây. Thông qua các buổi điều trần, họp báo, hội thảo của Quốc hội Mỹ, các nước châu Âu để gây sức ép buộc Việt Nam phải có những “tiến bộ cụ thể về nhân quyền, tôn giáo”. Thông qua các diễn đàn công khai như hội thảo, hội nghị khoa học, những buổi tiếp xúc, đối thoại với các cơ quan chức năng của Việt Nam, họ yêu cầu ta phải đưa ra các lộ trình thực hiện các điều ước quốc tế về dân chủ, nhân quyền, thành lập Tòa án Hiến pháp ở nước ta. Họ còn gửi thư, bản kiến nghị tới Liên hợp quốc, Quốc hội, Chính phủ các nước, lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta để phản đối việc chính quyền bắt giữ, xét xử một số đối tượng chống đối trong nước, đòi trả tự do cho cái gọi là “tù nhân lương tâm”. Lợi dụng việc chính quyền đấu tranh, xử lý số đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị vi phạm pháp luật, họ đã tạo cớ, vu cáo chính quyền vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp người “bất đồng chính kiến” và những người “yêu nước”, kêu gọi sự can thiệp của cộng đồng quốc tế.
Họ dùng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để thúc đẩy, hình thành hội, nhóm, tổ chức chính trị đối lập với Nhà nước. Họ xuyên tạc rằng, chế độ độc đảng ở Việt Nam là trở ngại lớn nhất trong quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam, muốn có dân chủ thực sự thì Việt Nam nên xóa bỏ chế độ độc đảng. Thông qua đó, họ tập hợp lực lượng hình thành các tổ chức dưới danh nghĩa “bảo vệ dân chủ, nhân quyền”, “yêu nước” như: “Hội phụ nữ nhân quyền”,“Nhóm công dân tự do”, “Nhóm tuổi trẻ yêu nước”... Họ thúc đẩy sự ra đời của các khuynh hướng dân chủ cực đoan, phát triển “xã hội dân sự”, hình thành các tổ chức chính trị, hội nhóm bất hợp pháp; tạo dựng ngọn cờ tập hợp lực lượng chống phá từ bên trong. Họ còn tuyên truyền, vận động số người có biểu hiện cơ hội, bất mãn ký tên vào kiến nghị, tuyên bố… nhằm đưa ra yêu sách “dân chủ, nhân quyền”, “bảo vệ chủ quyền”… Họ còn vận động các tổ chức quốc tế trao “giải thưởng nhân quyền” cho các đối tượng bất đồng chính kiến, hay những đối tượng vi phạm pháp luật bị ta bắt, xử lý ở trong nước… nhằm cổ súy, khích lệ số đối tượng trong nước hoạt động quyết liệt, tích cực hơn.
Các thế lực thù địch triệt để tác động Quốc hội Mỹ, EU và các nước phương Tây thông qua các dự luật, nghị quyết, báo cáo thường niên... với nội dung xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo nhằm làm cho cộng đồng quốc tế hiểu không đúng tình hình trong nước, điển hình như: Báo cáo Tự do tôn giáo quốc tế của Bộ Ngoại giao Mỹ; Báo cáo tình hình nhân quyền thế giới hằng năm của Anh, Úc; Nghị quyết của Nghị viện châu Âu... Trong đó, chỉ riêng Hạ viện Mỹ hằng năm đã liên tục thông qua nhiều dự luật, nghị quyết về tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Báo cáo thường niên của các tổ chức quốc tế, như: Tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW), Tổ chức Ân xá Quốc tế (AI); Nhà Tự do (FH), Ủy ban bảo vệ nhà báo (CPJ)... mặc dù phải thừa nhận Việt Nam có “chuyển biến tích cực” về dân chủ, nhân quyền nhưng vẫn xuyên tạc Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền. Họ còn tìm cách thông qua các chính khách cực đoan tác động đưa Việt Nam trở lại danh sách “các nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo” (CPC) để áp dụng các biện pháp “trừng phạt” đối với nước ta.
Để đẩy lùi hai mũi tiến công nguy hiểm
Trong những năm tới, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, việc lợi dụng dân chủ, nhân quyền vẫn là chiêu bài được các thế lực bên ngoài triệt để lợi dụng nhằm gây mất ổn định, can thiệp sâu vào nội bộ của ta. Để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động này, thời gian tới, cần thực hiện tốt những vấn đề sau: 
Một là, công tác phòng, chống hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội nước ta luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng; sự quản lý, điều hành của Chính phủ nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn làm thất bại âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo chống phá Việt Nam từ cấp cơ sở. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò công tác bảo vệ và đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn hoạt động lợi dụng nhân quyền chống phá ta, coi đó là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành và nhân dân để huy động sự tham gia của cả xã hội trong công tác này.
Hai là, tiếp tục tham mưu cho Đảng, Nhà nước xây dựng và hoàn thiện các chính sách, văn bản pháp luật nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người đi đôi với việc kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, phát huy quyền dân chủ của nhân dân trên cơ sở pháp luật. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các phong trào thi đua yêu nước ở địa phương, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở bảo đảm thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo ở địa phương. Tăng cường công tác quản lý báo chí, xuất bản; kiểm soát chặt chẽ an ninh thông tin, quản lý internet, tích cực đấu tranh ngăn chặn việc tán phát tài liệu, tin tức xuyên tạc, thù địch về dân chủ, nhân quyền ở nước ta. 
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền chính sách, thành tựu bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền đối nội và tuyên truyền đối ngoại; tận dụng thế mạnh của các kênh ngoại giao, đối thoại, hợp tác làm cho cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài hiểu đúng quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thành tựu đã đạt được trong bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, góp phần đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp dân tộc, tôn giáo hòng can thiệp nội bộ nước ta.
Bốn là, chủ động triển khai nắm tình hình, dự báo kịp thời mọi âm mưu, hoạt động lợi dụng dân chủ, nhân quyền của các thế lực thù địch để triển khai những biện pháp phòng ngừa, đấu tranh. Kịp thời phát hiện, phối hợp giải quyết dứt điểm các mâu thuẫn, khiếu kiện, “điểm nóng” ngay từ cơ sở, không để kéo dài, không lây lan, vượt cấp. Trong xử lý các vấn đề nhạy cảm về dân chủ, nhân quyền phải tính toán, cân nhắc thời điểm phù hợp, bảo đảm yêu cầu chính trị, pháp luật, đối ngoại theo hướng kiên định về nguyên tắc nhưng khôn khéo, linh hoạt về phương pháp, tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước và cộng đồng quốc tế, kiên quyết không làm phức tạp thêm tình hình, không sơ hở để địch lợi dụng vu cáo, xuyên tạc.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói, giảm nghèo… kết hợp với thực hiện công bằng xã hội, không ngừng nâng cao trình độ dân trí, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo nhằm góp phần bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của người dân trên cơ sở pháp luật; tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh bảo đảm ổn định ANCT-TTXH. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế và các khuyến nghị về nhân quyền mà Việt Nam đã chấp thuận. Tăng cường hợp tác quốc tế trên lĩnh vực nhân quyền với các quốc gia, tổ chức quốc tế quan tâm vấn đề này ở nước ta.
ĐỨC QUỲNH


"TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HÓA" VỀ ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG

Hiện nay ở nước ta hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về đạo đức, lối sống đang diễn ra và được biểu hiện ở nhiều mức độ. Biểu hiện đầu tiên của những người “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về đạo đức, lối sống là nhìn nhận đạo đức, lối sống có sự sai lệch, chỉ thấy mặt tiêu cực, mặt xấu mà không thấy mặt tích cực, không thấy những giá trị đạo đức, lối sống tốt đẹp của dân tộc, của cách mạng.
Những người có tư tưởng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về đạo đức, lối sống thường là những người thiếu tu dưỡng, rèn luyện về đạo đức, lối sống, nên dần bị tha hóa, bị cái xấu lấn lướt những cái tích cực trong con người mình. Đại hội lần thứ XII của Đảng đã nhận định: “Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên”. Đó chính là sự yếu kém, mất dần cái tốt, cái tiến bộ, làm tăng dần cái xấu, cái lạc hậu, làm chậm lại quá trình phát triển và dẫn đến sự thoái hóa, biến chất của chính bản thân con người và tổ chức.
Suy thoái về đạo đức, lối sống còn biểu hiện ở việc du nhập lối sống tư sản thực dụng, sống buông thả, ngại học tập, phấn đấu, rèn luyện. Có một bộ phận sa vào tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, sử dụng ma túy, buôn lậu… và tha hóa về quan hệ gia đình, quan hệ xã hội. Những người này thường không còn nhiệt huyết cách mạng, tính tích cực bị giảm sút, phẩm chất cách mạng bị xói mòn. Những cán bộ, đảng viên có quyền lực mà rơi vào “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về đạo đức, lối sống ngoài việc ngại rèn luyện, lười suy nghĩ, lười học tập… họ còn hình thành những “cơ chế ngầm”, tạo “cánh hẩu” để bảo vệ, bao che cho nhau, trù dập những người thẳng thắn, có thái độ đấu tranh phê bình. Họ du nhập, bắt chước lối sống tư sản, coi đó là “lẽ sống của thời đại”, trong khi đó họ lại coi thường lẽ phải, đạo lý.
Suy thoái về đạo đức, lối sống tất dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị. Ở mức độ này có thể gọi là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trầm trọng. Họ rất có thể sẽ chuyển hóa thành đối tượng phản động, chống lại Tổ quốc, chống lại Đảng, chế độ và nhân dân. Thực tế hiện nay đã có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên bị thoái hóa về đạo đức, lối sống, đúng như Hội nghị Trung ương lần thứ tư (khóa XII) nhận định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”. Đây là sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” rất nguy hiểm về đạo đức, lối sống ở nước ta hiện nay, nên cần phải nhận diễn cho rõ và đấu tranh, chấn chỉnh, loại bỏ.
TRẦN THÔN