Thứ Ba, 20 tháng 6, 2017

HỒ CHÍ MINH - TẤM GƯƠNG MẪU MỰC VỀ TỰ HỌC VÀ HỌC SUỐT ĐỜI

Tự học và học tập suốt đời là luận điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Người cũng là tấm gương sáng về tinh thần suốt đời bền bỉ và khiêm tốn học hỏi. Khi nói về tự học, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ làm sáng rõ mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung của việc mà còn định hướng cho chúng ta về phương pháp học tập.
Một là, học thường xuyên, lấy tự học làm cốt
Trong 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước và hoạt động ở nước ngoài, Hồ Chí Minh đã trải qua nhiều công việc vất vả, khó khăn nhưng Người luôn tự tìm tòi, tự học tập, nghiên cứu. Nhờ thế, Người trở thành một người lao động chân chính, hội tụ phẩm chất, tâm hồn của chiến sỹ cộng sản, trong đó có vượt khó và vượt khó trong học tập. Người luôn tranh thủ thời gian để học tập; lao động “để lấy tiền mà đi học”. Người tự học ngoại ngữ để tiếp cận tri thức, tinh hoa của nhân loại và để hoạt động cách mạng. Với vốn tiếng Pháp trau dồi được tại trường Tiểu học Pháp - Việt, trong những ngày tháng bôn ba, Người tiếp tục tự học tiếng Pháp. Người tự học nói và học viết. Người vừa đi vừa học, vừa làm vừa học. Sau đó, Người sang Anh, dù phải làm các công việc khác nhau như cào tuyết, đốt lò, bồi bàn... hết sức vất vả, “hàng ngày, buổi sáng sớm và buổi chiều, anh Ba ngồi trong vườn hoa Haiđơ (Hyde), tay cầm một quyển sách và một cái bút chì. Hàng tuần vào ngày nghỉ, anh đi học tiếng Anh với một giáo sư người Ý”. Với sự siêng năng và phương pháp học tập khoa học, Người nhanh chóng thành thạo nhiều ngôn ngữ trên thế giới. Năm 1935, trong tờ khai lý lịch của đại biểu tham dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản, Người ghi: Biết các thứ tiếng Pháp, Anh, Trung Quốc, Ý, Đức, Nga... Thực ra, danh mục ngoại ngữ mà Người nắm vững còn nhiều hơn thế. Tất cả là nhờ ý chí tự học và sự siêng năng.
Là chiến sỹ cộng sản, hiểu rõ tầm quan trọng của báo chí trong việc tuyên truyền cách mạng, Hồ Chí Minh đã làm báo, viết báo. Lúc đầu, Người viết ngắn, mỗi tin chỉ năm ba dòng, dần dần Người kéo dài tin thành cả cột báo. Sau khi đã viết được dài thì Người lại học cách viết rút ngắn lại sao cho thật rõ, thật gọn, thật hấp dẫn. Từ viết báo, Người chuyển sang viết truyện, viết kịch... Hồ Chí Minh khẳng định: “Không sợ khó, có quyết tâm. Không biết thì phải cố gắng học, mà cố gắng học thì nhất định học được”. Nhờ tinh thần đó, bên cạnh sự nghiệp cách mạng vĩ đại, Người còn để lại một di sản lớn các tác phẩm báo chí và văn học. Trong đó, không ít tác phẩm viết bằng tiếng nước ngoài. Đó là kết quả của việc không ngừng học hỏi, tự học tập của Người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân phải chịu khó học tập, không ngừng nỗ lực để chiếm lĩnh tri thức. Người căn dặn: “Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học, phải học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học hỏi ở nhân dân”. Người nói: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời... Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”. Ai muốn “vừa hồng vừa chuyên” đều phải cần cù học tập. Đặc biệt, “người cách mạng phải học suốt đời, học lý luận, học quần chúng, học thực tế”. Có như vậy, cán bộ mới có đủ tri thức và năng lực thực hành. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (1947), khi bàn về công tác huấn luyện cán bộ, Hồ Chí Minh đã có chỉ dẫn: “Lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào”. Người dạy thêm: “Sắp xếp thời gian và bài học phải cho khéo, phải có mạch lạc với nhau”. Khi nói về Công tác huấn luyện và học tập (1950), Người nhấn mạnh: “Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học”. Người yêu cầu trong học tập phải tự giác, “Không phải có thầy thì học, thầy không đến thì đùa. Phải biết tự động học tập”. Tự học chính là sự nỗ lực của bản thân người học một cách có kế hoạch, trên tinh thần tự giác học tập.
Hai là, học đi đôi với hành, lý thuyết gắn với thực tiễn
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “học đi đôi với hành”. Người nhấn mạnh: “Không vào hang không bắt được cọp. Không thực hành thì nhất định không thể hiểu biết”. Khi nói chuyện với học viên Trường Thanh niên Lao động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình, Hồ Chí Minh kể lại: “Trước đây lúc tuổi thanh niên, Bác hoạt động ở Pháp, cũng vừa lao động, vừa học tập, nhưng lúc đó lao động là lao động nô lệ cho đế quốc. Bác phải làm thế để tự kiếm sống, nhưng vẫn dành thời giờ để học tập, ngày lao động, đêm học tập, chứ Bác không được đến trường học đâu. Vì vậy, Bác khuyên mọi người học tập tốt, lao động tốt để trở thành người lao động xã hội chủ nghĩa”. Người khẳng định, học để sửa chữa tư tưởng, học để tu dưỡng đạo đức cách mạng, học để tin tưởng, học để hành. Bàn về tầm quan trọng của việc học đi đôi với hành, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Một người học xong đại học, có thể gọi là trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Y muốn thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế”. Người còn giải thích: “Do thực hành mà sinh ra hiểu biết. Lại do thực hành mà chứng thực và phát triển sự thật. Từ hiểu biết bằng cảm giác tiến lên hiểu biết bằng lý trí. Lại từ hiểu biết bằng lý trí tiến lên thực hành lãnh đạo cách mạng, cải tạo thế giới. Thực hành, hiểu biết, lại thực hành, lại hiểu biết nữa. Cứ đi vòng như thế mãi, không bao giờ ngừng”. Muốn giỏi đòi hỏi phải gắn học với hành, học để vận dụng sáng tạo vào trong thực tế công tác, trong cuộc sống, học để ứng xử với bản thân, với mọi người, với thực tế cuộc sống, để cống hiến cho sự nghiệp xây dựng đất nước. Vì thế, Người luôn nhắc nhở rằng, làm nghề gì cũng phải học và phải ham học, học trong công việc hằng ngày, trong việc lớn cũng như việc nhỏ, việc cao cũng như việc thấp. Người khẳng định, học cốt để làm, học mà không làm, học mấy cũng không tác dụng, học mấy cũng vô ích; học cốt để áp dụng vào công việc thực tế, lý thuyết mà không áp dụng vào thực tế là lý thuyết suông; chỉ học thuộc lòng lý thuyết để đem lòe thiên hạ thì lý thuyết ấy cũng vô ích, mà phải vừa học, vừa làm, học tập tốt.
Đồng thời, Hồ Chí Minh chỉ rõ tầm quan trọng của lý luận đối với hoạt động thực tiễn: “Học để mà hành. Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy”. Người nhấn mạnh: “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên”. Từ đó, Người kết luận: “Vì vậy, chúng ta phải cố gắng học, đồng thời học thì phải hành”. Hồ Chí Minh coi lời dạy của V.I.Lênin: Học, học nữa, học mãi và lời dạy của Khổng Tử: Học không biết chán, dạy không biết mỏi là phương châm học tập của mình.
Ba là, học qua tổng kết, đúc kết kinh nghiệm từ thực tiễn, học trong công việc
Ở cương vị đứng đầu Đảng và Nhà nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhắc nhở mọi người học lý luận đồng thời học trong thực tiễn. Người giải thích: Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng, làm thành kết luận, rồi đem nó chứng minh với thực tế. Vì thế, Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người phải vừa học, vừa làm, học để áp dụng vào thực tiễn công tác. Trong lúc học lý thuyết phải nghiên cứu công việc thực tế. Người nhấn mạnh, thời kỳ học ở nhà trường chưa thể cung cấp những kiến thức đầy đủ và sâu rộng; nó mới chỉ giúp ta được những điều căn bản, định rõ cho ta một phương hướng đi cho khỏi lầm đường và gợi cho ta lòng ham muốn nghiên cứu. Còn sau khi ra trường làm việc, phải nghiên cứu không những trong sách vở, mà còn phải nghiên cứu ngay trong thực tiễn công tác của mình, phải vừa làm, vừa học. Bác Hồ khuyên mọi người: “Học trong xã hội, học nơi công tác thực tế, học ở quần chúng”.
Bốn là, xác định rõ mục đích học tập
Mục đích của việc học là để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, “Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Đối với cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh chỉ rõ, “Công việc cứ tiến mãi. Không học thì không theo kịp, công việc nó sẽ gạt mình lại phía sau”. Do đó, việc học phải diễn ra liên tục. Ngày 21-7-1956, nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa I, Trường Đại học Nhân dân Việt Nam, Người căn dặn: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”.
Năm là, đọc sâu hiểu kỹ từng vấn đề
Phương pháp đọc sách, báo của Hồ Chí Minh là: đọc cho rộng, có ghi chép, phân loại các thông tin. Hồ Chí Minh thường xuyên đọc sách, báo. Hằng ngày, Người đều theo dõi báo chí, đánh dấu vào những chỗ đọc thấy cần thiết; tiếp theo khi đọc luôn phải suy nghĩ kỹ càng; cuối cùng và cũng là bài học quan trọng nhất là áp dụng những điều đã đọc vào thực thực tế công việc và cuộc sống. Với những vấn đề quan trọng, có những từ hoặc vấn đề không hiểu, điều tra kỹ lưỡng cho đến đến khi hiểu cặn kẽ mới thôi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về tinh thần tự học, lấy tự học làm cốt, làm phương thức chủ yếu để nâng cao trình độ mọi mặt của bản thân. Tự học ở Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một triết lý nhân văn sâu sắc với một kế hoạch cụ thể, chặt chẽ, khoa học; với một ý chí và quyết tâm bền bỉ, dẻo dai, tinh thần sáng tạo, tranh thủ mọi lúc, mọi nơi để học. Tấm gương sáng của Người là nguồn cổ vũ, nguồn cảm hứng vô tận cho mỗi người Việt Nam xây dựng xã hội học tập hiện nay.
Lê Thị Thúy Hương,
Trần Thị Ngọc
Trường Đại học Cần Thơ



TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

                Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới; là một trong những vĩ nhân đầu tiên của thế kỷ XX đã đóng góp to lớn vào giải quyết các vấn đề về quyền con người và Người đã trọn đời đấu tranh giải pháp dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
               Tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi và phong phú, hết lòng vì nước, vì dân của Hồ Chí Minh là di sản quý báu đối với dân tộc ta và đóng góp vào lý luận Mác - Lênin và di sản văn hóa nhân loại. Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về quyền con người có nội dung phong phú và sâu sắc. Tư tưởng nhân quyền của Người là kim chỉ nam về lý luận và thực tiễn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong suốt hơn tám thập niên qua và hiện nay đang tiếp tục soi đường cho sự nghiệp đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh của nhân dân ta giành thắng lợi.
                Người đã chỉ ra rằng, quyền con người chỉ có được thông qua đấu tranh cách mạng chống áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quyền con người gắn liền với quyền dân tộc, với độc lập chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ.
                 Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người có quá trình hình thành và phát triển, gắn với hoạt động thực tiễn phong phú và nghiên cứu thấu đáo lý luận của Hồ Chí Minh, xuất phát từ những giá trị nhân văn Việt Nam truyền thống và các giá trị thời đại, phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam.
                  Quan điểm của Hồ Chí Minh về quyền con người
                Quyền con người là một giá trị phổ quát và là vấn đề có tính lịch sử dài lâu cả về phương diện thực tiễn cũng như lý luận. Quyền con người có nội dung rất phong phú, có tính chất nhạy cảm, phức tạp. Và càng phức tạp hơn khi nó gắn với các chế độ chính trị khác nhau. Do các lát cắt tiếp cận đa dạng, vấn đề quyền con người thường có những nhận thức khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Hồ Chí Minh tiếp cận vấn đề quyền con người xuất phát từ truyền thống dân tộc Việt Nam và từ bối cảnh thực tiễn cụ thể của đất nước, đồng thời kế thừa có chọn lọc những nội dung hợp lý của tư tưởng nhân quyền hiện đại. Trên cơ sở đó, Người đã đưa ra những luận điểm mới, sâu sắc và toàn diện về quyền con người, phù hợp với đặc điểm của tình hình cụ thể ở Việt Nam và thời đại mới.
                 Từ đặc điểm của dân tộc đang bị mất độc lập, bị áp bức bóc lột nặng nề dưới chế độ đế quốc thực dân và địa chủ phong kiến tay sai, mọi quyền sống của con người cũng như quyền dân tộc đều bị xóa bỏ. Vì vậy, vấn đề quyền con người ở Việt Nam chỉ có thể được giải quyết thông qua cuộc cách mạng để giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam. Đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của thực tiễn Việt Nam đặt ra, cách mạng cần giải quyết, có giải quyết được yêu cầu này thì quyền con người mới được bảo đảm.
                  Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người bắt nguồn từ lịch sử dân tộc và thực tiễn của đất nước, kế thừa có chọn lọc những tư tưởng nhân quyền tiến bộ của phương Đông cũng như phương Tây. Đặc biệt là vận dụng sáng tạo tư tưởng giải phóng con người và xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là đặc điểm nổi bật trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về quyền con người.
Với ý chí kiên cường, Hồ Chí Minh đã lên đường bôn ba tìm đường cứu nước. Trải qua những tháng năm khảo sát thực tế cuộc sống nhiều quốc gia, tìm hiểu về những gì ẩn chứa sau những từ “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”, xem các giá trị cao quý đó được thực thi ở “mẫu quốc” và tại các nước, các thuộc địa như thế nào. Người đã đến trung tâm của chủ nghĩa thực dân để xem cái “hào nhoáng” của những nền “văn minh với sứ mệnh khai hóa”. Người đã dày công nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản và các nhà tư tưởng tiến bộ khác đồng thời đã tìm thấy ở Tuyên ngôn Nhân quyền, Dân quyền của cách mạng Pháp (1789) và Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776) những “quyền bất khả xâm phạm” của con người. Năm 1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, Người gửi “Bản yêu sách của dân tộc Việt Nam gửi đến Hội nghị Véc xay (Pháp). “Bản yêu sách” gồm 8 điểm rất ôn hòa, yêu cầu Chính phủ Pháp trao trả một số quyền tự do, dân chủ tối thiểu và cơ bản cho dân Việt Nam, cũng như các dân tộc ở Đông Dương… Nhưng những yêu sách đó của Nguyễn Ái Quốc đều không được đại diện các nước tham gia Hội nghị Véc xay quan tâm. Thực tế đó, giúp Người ngày càng nhận rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc thực dân và rút ra kết luận quan trọng rằng: Muốn được giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân mình và phải thông qua cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ. Đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là tiền đề, là điều kiện giành lấy và thực hiện quyền của con người. Đây là một vấn đề mới về lý luận và chính trị.
Những nội dung cơ bản trong quan điểm  Hồ Chí Minh về quyền con người
                  Một là, Hồ Chí Minh quan niệm quyền của mỗi người gắn chặt và không tách rời với quyền của dân tộc, do đó Người đã đấu tranh đòi quyền con người cho cả dân tộc, quyền tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc. Không dừng lại ở đó, Người đã đòi quyền cho tất cả các dân tộc đang bị áp bức bóc lột trên thế giới. Đây là sự phát triển, khái quát cao, đem lại những nội dung mới về quyền con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh thời đại mới. Điều này đã được thể hiện rõ trong Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam do Người trực tiếp soạn thảo và tuyên đọc tại Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong đó, Người khẳng định một chân lý của thời đại mới đó là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Như vậy, từ những quyền cơ bản của con người được mở rộng thành quyền dân tộc và gắn chặt quyền con người với độc lập dân tộc, quyền tự quyết dân tộc là một cống hiến lý luận của Hồ Chí Minh vào kho tàng tư tưởng nhân quyền của nhân loại.
                      Hai là, Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh đòi quyền cho con người, mà Người còn nhấn mạnh tới quyền làm người. Bởi vì, quyền con người không chỉ cần ăn, mặc, ở, đi lại để tồn tại mà còn vươn lên trên cái tồn tại để hoàn thiện và phát triển bản thân. Đó chính là quyền học tập, sáng tạo, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền tự do, quyền dân sự, quyền về chính trị, kinh tế - văn hóa xã hội, cũng như quyền của các nhóm người đặc biệt trong xã hội như: quyền các dân tộc thiểu số, quyền phụ nữ, quyền của trẻ em, quyền của nhóm người có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn cần được xã hội quan tâm, tạo điều kiện, giúp đỡ để họ hòa nhập với cộng đồng xã hội.
Quyền con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc mà Người còn bàn tới quyền làm chủ, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền được pháp luật bảo vệ, quyền đi lại, quyền cư trú, quyền công dân, quyền hôn nhân và xây dựng gia đình, quyền sỡ hữu tài sản, quyền tư do tư tưởng, quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo.
Như vậy, có thể thấy nội dung quyền con người trong tư tưởng của Hồ Chí Minh được phát triển rất phong phú cả về bề rộng và chiều sâu, tạo ra một hệ thống về quyền con người theo quan điểm khoa học và cách mạng. 
                    Ba là, Hồ Chí Minh triệt để thực hiện giữa nói và làm. Sự thống nhất giữa tư tưởng và hành vi, giữa lý luận và thực tiễn, giữa động cơ và hiệu quả đã trở thành đặc trưng nổi bật của Hồ Chí Minh so các nhà tư tưởng, các lãnh tụ khác. Người là tấm gương sáng, trọn vẹn về nhân quyền và cuộc đấu tranh cho quyền con người.
                   Người khẳng định rõ: Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có căm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Hồ Chí Minh khẳng định: Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo là vì mục đích đó. Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề con người và giải phóng con người, coi đó là mục đích cao nhất cần đạt tới trong mọi hoạt động cách mạng của mình.
Trong suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh đã dồn hết tâm lực, trí tuệ để lãnh đạo nhân dân giành độc lập cho dân tộc, giành quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng, phát triển đất nước để mang lại hạnh phúc và quyền làm người cho toàn dân, làm cho Việt Nam trở nên giàu mạnh, hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu…
                     Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ mục tiêu của nước ta là: “1. Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có học hành”. Người luôn tâm niệm, nước được độc lập mà dân không được hưởng tự do, dân vẫn cứ đói, rét thì độc lập ấy chẳng có ý nghĩa gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.
                      Chính vì lẽ đó, Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên không bao giờ được quên “dân là chủ”. Với quan niệm trên, trong chế độ mới, giá trị cao nhất của độc lập dân tộc là đem lại quyền làm chủ thực sự cho người dân, phải trao lại cho dân mọi quyền hành. Dân là chủ, nghĩa là trong xã hội nhân dân là người chủ của nước, nước là nước của nhân dân. Các cơ quan Đảng và Nhà nước là tổ chức được dân ủy thác làm công bộc phục vụ cho nhân dân. Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân, cán bộ, đảng viên là đầy tớ của dân. Là đầy tớ, là công bộc của dân, vì lợi ích chung mà gánh vác việc dân, phải trung thành và tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân. Cán bộ phải như những người lính vâng mệnh quốc dân mà thi hành nhiệm vụ, thay mặt dân để ra quyết định, phải toàn tâm, toàn ý phục vụ đất nước phục vụ nhân dân. Người nhấn mạnh: Đảng không có mục tiêu nào khác là đem lại lợi ích cho dân. 
                      Hiểu rất rõ giá trị của quyền con người và quyền làm người, ngay khi cách mạng thành công, chỉ sau một ngày Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ngày 3-9-1945), Người chỉ ra 6 nhiệm vụ cấp bách trong đó có nhiệm vụ ban hành hiến pháp để bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân và đề nghị tổ chức sớm nhất cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái đủ 18 tuổi trở lên đều được quyền ứng cử và bầu cử theo luật định không phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo và giống nòi.
Bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử dân tộc ta do Người trực tiếp làm trưởng ban soạn thảo đã được Quốc hội thông qua ngày 9-11-1946. Ngay trong lời nói đầu đã xác định: “bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân” là một trong những nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp. Trong bản Hiến pháp năm 1946 đã giành cả chương II nói về “quyền lợi và nghĩa vụ công dân” gồm 18 điều cụ thể quy định các quyền dân sự, chính trị cũng như các quyền về kinh tế, văn hóa và xã hội…
Theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng hệ thống quyền con người ở nước ta ngày càng mở rộng và được quán triệt ngày càng đầy đủ trong các bản Hiến pháp năm 1959, 1982, 1992 và năm 2013 cũng như trong chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người là vấn đề lớn với một nội dung rất rộng, toàn diện và sâu sắc. Ngày nay, tư tưởng quyền con người của Người được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang tiếp tục quán triệt và vận dụng trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội; nhất là trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đảng ta khẳng định quan điểm nhất quán: “Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người”; con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Đại hội XII xác định: Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách bảo vệ và bảo đảm thực hiện tốt quyền con người, quyền công dân, theo phương hướng: Coi trọng chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người, bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà nước ta ký kết.
                    Quyền con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh là một vấn đề lớn, có nội dung phong phú, đặc sắc. Quyền con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc mà còn bao gồm cả quyền làm chủ, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền được pháp luật bảo vệ, quyền đi lại, quyền cư trú, quyền công dân, quyền hôn nhân và xây dựng gia đình, quyền sỡ hữu tài sản, quyền tư do tư tưởng, quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Cả cuộc đời Người đấu tranh vì thực hiện quyền con người.
                   Để hiện thực hóa  các quyền con người, cần các điều kiện tiền đề phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm các quyền có việc làm, ăn, ở, mặc, đi lại, học hành, nghỉ ngơi, chữa bệnh, chăm sóc người già, trẻ em, phụ nữ,... cải thiện ngày một tốt hơn đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân.
Chế độ kinh tế và xã hội xã hội chủ nghĩa, theo Người chính là “nhằm thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân” là làm cho dân giàu, nước mạnh, làm cho “mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do”, là công bằng, hợp lý. Xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động chính là thực hiện trên thực tế sự nghiệp giải phóng con người theo lý tưởng nhân văn tiến bộ của nhân loại. Đó vừa là mục tiêu, đồng thời cũng là động lực phát triển của xã hội Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
                                                                             ThS Đào Văn Quang

Thứ Ba, 13 tháng 6, 2017

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THAM NHŨNG

                 Tham nhũng là một hiện tượng xã hội, gắn liền với sự ra đời, hoạt động của nhà nước. Đây là thứ tệ nạn đặc biệt nguy hiểm, được ví như “quốc nạn”, “giặc nội xâm”, gây hậu quả to lớn đối với đời sống xã hội, thậm chí sự mất còn của chế độ và Tổ quốc. Bởi vậy, phòng, chống tham nhũng được Đảng ta xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, thể hiện quyết tâm chính trị cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
                 Tham nhũng và phòng, chống tham nhũng là một trong những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, đó là mối quan tâm thường xuyên của Người trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh đã nhiều lần đề cập đến tham nhũng, tác hại của nó và cách phòng, chống. Người coi tham nhũng là có tội với dân, với nước, nguy hiểm như bọn việt gian bán nước, cần phải nghiêm trị thích đáng. Tư tưởng, tấm gương về phòng, chống tham nhũng của Bác mãi mãi là biểu tượng sinh động về đạo đức cách mạng, nhân cách của một người hết lòng vì dân, vì nước. Những lời dạy của Người vừa sâu sắc, toàn diện, vừa có tính khái quát, cụ thể, dễ hiểu và là kim chỉ nam trong cuộc đấu tranh với tệ nạn tham nhũng trước đây cũng như hiện nay.
                    Khi đề cập về tham ô (tham nhũng) Bác khẳng định: “Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công làm của tư; Đục khoét của nhân dân; Ăn bớt của bộ đội; Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình. Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế”1. Như vậy, chủ thể của hành vi tham ô là cán bộ, công chức - những người nắm chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước, nhưng cũng có thể người dân bình thường nếu “ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế”. Biểu hiện của hành vi tham ô là biến “của công” thành “của tư”. “Của công” ở đây chính là tài sản của nhân dân, do nhân dân đóng góp, phục vụ mục đích chung: giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. “Của công” thành “của tư” tức là tài sản chung nhưng không được sử dụng đúng mục đích, mà thực chất bị chiếm dụng thành của riêng, quỹ riêng của cá nhân, tập thể, địa phương. Một trong những biểu hiện tham nhũng nữa mà Bác chỉ ra là, một số cán bộ được Chính phủ và nhân dân trả lương hằng tháng, nhưng lại kém lòng trách nhiệm, đứng núi này trông núi nọ, làm việc chậm chạp, ăn cắp giờ, v.v. Đây là hình thức tham ô tuy không gây hậu quả nghiêm trọng ngay, nhưng nếu xảy ra hằng ngày, liên tục sẽ làm giảm chất lượng, hiệu quả công việc, ảnh hưởng đến hoạt động của bộ máy công quyền, hiệu lực quản lý của nhà nước và đó là mối nguy hại lớn đối với sự nghiệp cách mạng. Bác Hồ chỉ rõ : “Tham ô, lãng phí, quan liêu là một thứ giặc ở trong lòng”; là hành động xấu xa nhất, tội lỗi nhất trong xã hội, nó làm hại đến sự nghiệp xây dựng nước nhà, hại đến công việc cải thiện đời sống của nhân dân, hại đến đạo đức cách mạng của cán bộ và công nhân. Trong khi chiến sỹ thì hy sinh xương máu, đồng bào thì hy sinh mồ hôi nước mắt để đóng góp công sức vào bảo vệ và kiến thiết nước nhà, mà những kẻ tham ô, lãng phí và quan liêu thì phá hoại tinh thần, phí phạm sức lực, tiêu hao của cải của chính phủ và của nhân dân vào mục đích riêng. Tội lỗi ấy cũng nặng như tội Việt gian mật thám, là “kẻ địch”, là “giặc nội xâm”, hoặc ngang hàng với “kẻ phản quốc”, v.v.
                     Tác hại do tham nhũng gây ra cực kỳ lớn. Nó không những làm thiệt hại về kinh tế mà còn làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ; làm rối loạn kỷ cương pháp luật, hư hỏng cán bộ, triệt tiêu động lực cơ bản nhất của sự phát triển. Hồ Chí Minh khẳng định: “Tham nhũng là kẻ thù nguy hiểm của nhân dân, của bộ đội và của chính phủ…, vì nó không mang gươm, mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta để làm hỏng công việc của ta… Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng ta là cần- kiệm - liêm - chính”2. Về nguyên nhân, nguồn gốc và điều kiện phát sinh tham nhũng, Người cho rằng, về khách quan thì tham ô là căn bệnh “tứ chứng nan y” của mọi nhà nước. Dù bất kỳ nhà nước nào (phong kiến, tư bản hay  xã hội chủ nghĩa), nếu không có sự giáo dục sâu sắc, kỷ cương, pháp luật nghiêm minh, mọi hoạt động của nhà nước không được đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân thì khó tránh khỏi tình trạng tham ô của cải nhà nước dùng vào lợi ích cá nhân, hoặc một nhóm người. Những người có chức có quyền, dù to hay nhỏ đều có điều kiện để tham nhũng, nếu như tâm không sáng, lòng không trong thì khi có cơ hội là họ thực hiện hành vi tham nhũng. Bởi theo Bác, những người trong các công sở, từ làng cho đến Chính phủ Trung ương đều có nhiều hoặc ít quyền hành, đều có dịp phát tài hoặc xoay tiền của Chính phủ, hoặc đục khoét nhân dân. Nếu không giữ cần, kiệm, liêm, chính, chí công, thì trở nên hủ hoá, biến thành sâu mọt của nhân dân. 
                     Về chủ quan, do cán bộ, công chức “vì thiếu đạo đức cách mạng, vì cá nhân chủ nghĩa mà sinh tham ô”, Người nói: “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí”3; rằng: “Cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích cách mạng, của nhân dân. Tóm lại, do cá nhân chủ nghĩa mà phạm nhiều sai lầm”4. Người còn chỉ rõ, có tham ô là vì bệnh quan liêu, đó chính là mảnh đất màu mỡ cho tham ô nảy nở và phát triển. Vì vậy, “chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận. Đây là mặt trận tư tưởng và chính trị”5. Ngoài ra, theo Bác, tham ô còn do trình độ hiểu biết, trình độ văn hoá và năng lực tổ chức, quản lý nhà nước yếu kém. Cho nên muốn chống tham ô, cần phải nâng cao trình độ của cán bộ, công chức cả về phẩm chất chính trị, đạo đức, phong cách và văn hoá cũng như năng lực tổ chức, quản lý nhà nước.
Nhằm nâng cao ý thức phòng, chống tham nhũng trong cán bộ, đảng viên, Bác yêu cầu trước hết phải tạo nhận thức chung và có quyết tâm cao trong các cấp lãnh đạo, quản lý. Theo Người, đây là cuộc cách mạng nội bộ; là cuộc đấu tranh gay go giữa cái tốt và cái xấu, cái cũ và cái mới, giữa đạo đức cách mạng với tệ tham nhũng. Biện pháp quan trọng hàng đầu để đấu tranh chống tham nhũng chính là giáo dục tư tưởng cho quần chúng. Người nói: “làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng ức, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp”6. Trong cuộc đấu tranh này, quần chúng nhân dân giám sát cán bộ, công chức, phát hiện sai phạm, phê bình, lên án các biểu hiện tiêu cực. Đồng thời, phản ánh, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền để có biện pháp xử lý phù hợp, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật, không nể nang người có chức vụ, địa vị, với mục đích bảo vệ công lý, răn đe, làm gương cho những người đang hoặc có ý định tham ô. Cùng với đó, theo Bác là phải chống chủ nghĩa cá nhân, vì nó là thứ vi trùng rất độc, là kẻ thù nguy hiểm gây ra mọi sai lầm, tội lỗi. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân trong mỗi cán bộ, đảng viên, trong bộ máy của Đảng, Nhà nước thì Đảng mới thực sự trong sạch và vững mạnh. Đảng phải thực hành kỷ luật nghiêm minh, Nhà nước phải có các thể chế, luật pháp cụ thể, rõ ràng. Việc chống các hành vi tiêu cực phải quyết liệt, có tinh thần trung kiên, không khuất phục trước khó khăn, thử thách; phải kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, trong đó, “chống” là bảo đảm cho công việc “xây” thành công, “xây” phát triển mạnh mẽ thì đối tượng “chống’ sẽ được xóa bỏ tận gốc. Quá trình tiến hành phải đồng tâm, nhất trí, dựa vào sức mạnh của nhân dân, mạnh bạo xung phong, huy động được sự tham gia của các tổ chức, lực lượng.
                    Bác cho rằng, phải phát huy vai trò của báo chí trong nâng cao ý thức trách nhiệm đối với phòng, chống tham nhũng. Báo chí phải nêu được những việc kiểu mẫu, đăng những lời phê bình của quần chúng; làm cho mọi người thấy rõ những hành vi tham nhũng của công là tội ác. Và những ai, cơ quan nào được nhân dân và báo chí phê bình thì thật thà tự phê bình trước nhân dân, trên báo chí. Các ban thanh tra phải chú ý kiểm tra việc phòng, chống tham nhũng ở cơ quan mình; nghiêm chỉnh, kịp thời xem xét các vụ khiếu nại, tố giác; phải công khai, dân chủ, minh bạch trong mọi hoạt động, xử lý nghiêm minh những hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm, gây lãng phí tài sản của nhân dân. Bác yêu cầu, trong kiểm thảo phải thực hiện nguyên tắc: cán bộ, đảng viên ở vị trí càng cao thì càng phải giữ đúng kỷ luật của Đảng, càng phải làm gương dân chủ, mạnh dạn, thật thà tự kiểm thảo; thật thà báo cáo tình hình của cơ quan, đơn vị mình cho mọi người trong toàn đơn vị, toàn ngành biết rõ. Qúa trình làm phải nắm vững trọng điểm, làm từng bước, từ cấp trên đến cấp dưới, từ bộ phận chính đến bộ phận phụ; lấy giáo dục là chính, trừng phạt là phụ; có khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh; coi trọng tự phê bình và phê bình, chống thói “cả vú lấp miệng em”, ngăn cản quần chúng phê bình. Các cấp cần phát huy vai trò của chi bộ, đề cao trách nhiệm của chính quyền, thủ trưởng cơ quan, đơn vị, xí nghiệp trong lãnh đạo phòng, chống tham nhũng. Mặt khác, phải khắc phục những ý nghĩ sai lầm, như: “những người có công với cách mạng nếu có tham ô chút đỉnh, cũng nên tha thứ cho họ”, hoặc tư tưởng trung bình chủ nghĩa “ai tham ô mặc ai, mình không tham ô thì thôi”, v.v. 
                    Hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham nhũng được Đảng ta xác định là một trong những nội dung cơ bản trong Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đồng thời, là biện pháp thiết thực để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên dù ở bất cứ cương vị nào cũng phải quán triệt, thấu suốt và thực hiện nghiêm túc, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn tham nhũng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
                                                                             ĐẠI TÁ, TS. ĐỖ HỒNG LÂM

ĐẤU TRANH VỚI NHỮNG HOẠT ĐỘNG LỢI DỤNG QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC

                 Trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, việc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước ta hòng gây mất ổn định chính trị, xã hội là thủ đoạn thường xuyên được sử dụng. Vì vậy, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn thâm độc này là vấn đề cấp thiết hiện nay.
                 Qua thực tiễn có thể thấy, âm mưu này của các thế lực thù địch không mới; nói cách khác, nó đã từng được chúng sử dụng để chống phá các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Câu hỏi đặt ra là, tại sao chúng triệt để sử dụng âm mưu này đối với Việt Nam? Có lẽ không khó để tìm lời giải.
Việt Nam là quốc gia đa sắc tộc, tôn giáo; đồng bào tôn giáo chiếm tỷ lệ khá cao trong cộng đồng người Việt Nam. Nếu tranh thủ lợi dụng được đông đảo đồng bào tôn giáo thì sẽ tạo hiệu ứng lớn trong việc chống phá của chúng. Đó là chưa đề cập đến các hệ quả khác liên quan. Tính chất thâm độc, nguy hiểm của âm mưu này là ở đây. Ở một khía cạnh khác, Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền công dân, quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo được quy định và đảm bảo bằng Hiến pháp, pháp luật. Cùng với việc trắng trợn can thiệp - “đấu tranh pháp lý”, chúng triệt để lợi dụng cụm từ “tự do” mà cố tình lờ đi “... trong khuôn khổ pháp luật” để tổ chức các hoạt động chống phá, hòng gây mất ổn định chính trị - xã hội, tiến tới loại trừ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để thực hiện mưu đồ, các thế lực thù địch dùng mọi thủ đoạn nhằm tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của Nhà nước; hậu thuẫn về vật chất, tinh thần cho các đối tượng chống đối, đưa tôn giáo ở Việt Nam trở thành lực lượng chính trị “đối trọng” với Đảng. Chúng xác định lấy “tự do tôn giáo” làm “ngòi nổ” để chống phá Việt Nam; tuyệt đối hóa tính toàn cầu, tính phổ cập của các quyền trên lĩnh vực tôn giáo với luận điểm: “nhân quyền cao hơn chủ quyền”. Đồng thời cho rằng: “Việt Nam coi tôn giáo như là một công cụ tuyên truyền cho Đảng, Nhà nước, phục vụ các chính sách của Nhà nước trong phát triển kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng”, v.v. Họ lợi dụng những vụ việc nảy sinh trong đời sống, sinh hoạt của đồng bào tôn giáo, hoạt động tôn giáo và những bất cập, sơ hở của các cấp chính quyền trong quản lý, tổ chức thực hiện chính sách tôn giáo, nhất là những vấn đề liên quan đến giải tỏa, đền bù đất đai, cơ sở thờ tự,… để kích động quần chúng, tín đồ đập phá tài sản, chống người thi hành công vụ, phá rối an ninh, trật tự, cản trở giao thông tại các địa phương. Qua đó, tổ chức ghi hình, chụp ảnh, thổi phồng, bóp méo tình hình thực tế, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, vu cáo Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân quyền, đàn áp tôn giáo, v.v.
                   Các tổ chức phản động lưu vong còn móc nối với số đối tượng chống đối, bất mãn trong nước để thu thập tình hình dân tộc, tôn giáo ở Việt Nam rồi xuyên tạc, bóp méo sự thật và tán phát trên in-tơ-nét, nhằm hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Chúng lợi dụng các chính khách cực đoan trong quốc hội một số nước, như: Mỹ, Anh, Đức, Ca-na-đa,… và các tổ chức quốc tế, như: Human Right Watch (HRW), Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) để tác động tổ chức này thông qua các báo cáo, nghị quyết, thông cáo, phúc trình có nội dung xuyên tạc, làm cho cộng đồng quốc tế hiểu sai về tình hình tôn giáo ở Việt Nam. Điển hình như: Báo cáo Tự do tôn giáo quốc tế hằng năm của Bộ Ngoại giao Mỹ; Báo cáo tình hình nhân quyền thế giới hằng năm của Anh, Úc; nghị quyết của nghị viện châu Âu, v.v. Hạ viện Mỹ hằng năm thông qua nhiều dự luật, nghị quyết về tình hình nhân quyền tại Việt Nam; trong đó, có vấn đề tôn giáo, như: Dự luật HR 1587 (năm 2004), HR 3096 (năm 2007), HR 1410 (năm 2012), HR 1897 (năm 2013), Nghị quyết H.Res.484, v.v. Đặc biệt, chúng tìm cách thông qua các chính khách cực đoan (L.SanChez, Z.Lofgren, C.Smith,…) để đề nghị Quốc hội Mỹ đưa Việt Nam trở lại danh sách “các nước cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo” (CPC), bất chấp việc thực tế tình hình tôn giáo ở Việt Nam không phải vậy.
                    Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị và văn bản pháp luật nhằm đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền con người trên các lĩnh vực; trong đó, có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thực hiện những nghị quyết, chỉ thị đó, Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc về đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Chưa bao giờ các tôn giáo có điều kiện phát triển như hiện nay. Theo thống kê sơ bộ, tính đến đầu năm 2017, có 40 tổ chức tôn giáo thuộc 14 tôn giáo khác nhau được Nhà nước công nhận và cấp phép hoạt động với hơn 25 triệu tín đồ, 53 nghìn chức sắc, hơn 133 nghìn chức việc, 28 nghìn cơ sở thờ tự. Các tôn giáo đã có hệ thống đào tạo quy mô trong cả nước, trong đó, Phật giáo có 04 học viện, 01 trường cao đẳng và hàng chục trường trung cấp Phật học, gần 17.000 cơ sở thờ tự; Công giáo có 01 học viện, hàng chục trường đào tạo và hơn 7.000 cơ sở thờ tự; Cao Đài có 01 học viện, hơn 1.200 thánh thất, thánh tịnh; Tin lành có 01 Trường Thánh kinh thần học, hơn 500 cơ sở thờ tự và trường đào tạo tín đồ, v.v. Hầu hết các tổ chức tôn giáo đã có báo, tạp chí, bản tin riêng; Nhà nước đã cho phép xuất bản kinh sách bằng các tiếng dân tộc, như: Kinh thánh bằng tiếng Ba-na, Ê-đê, Gia-rai; in Kinh Phật bằng tiếng Khơ-me, v.v. Cùng với đó, Chính phủ hết sức quan tâm, xem xét, phê duyệt việc đăng ký các điểm nhóm Tin lành. Hiện nay, khu vực Tây Nguyên và Bình Phước có gần 500 nghìn tín đồ, thuộc 31 tổ chức, hệ phái, nhóm Tin lành; trong đó, có hơn 400 nghìn người đang sinh hoạt tại 240 chi hội và 1.300 điểm nhóm đã đăng ký với chính quyền địa phương. Khu vực Tây Bắc có gần 200 nghìn tín đồ, chủ yếu là người Mông, sinh hoạt ở hơn 1.300 điểm nhóm. Đồng bào theo đạo Tin lành có thể sinh hoạt tôn giáo tại gia đình hoặc sinh hoạt tập trung theo điểm nhóm.
                     Hoạt động hợp tác quốc tế trên lĩnh vực tôn giáo được chú trọng, đẩy mạnh. Chính phủ đã tạo điều kiện để các tôn giáo mở rộng quan hệ quốc tế rộng rãi. Đã có nhiều đoàn tôn giáo quốc tế đến thăm, làm việc tại Việt Nam và nhiều đoàn chức sắc tôn giáo trong nước đi thăm, làm việc và học tập ở nước ngoài. Việt Nam đã tổ chức thành công nhiều sự kiện tôn giáo lớn, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, như: Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc (Vesak) năm 2008 và 2014; Hội nghị Nữ giới Phật giáo thế giới lần thứ XI (năm 2009), Đại lễ 100 năm Tin lành đến Việt Nam (năm 2011), Diễn đàn Thượng đỉnh Phật giáo ASEAN năm 2016, v.v.
                   Với chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước Việt Nam, những năm qua, hầu hết tín đồ, chức sắc, chức việc các tôn giáo luôn yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, sống “tốt đời, đẹp đạo”, “ích nước, lợi dân”, tích cực tham gia phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh, trật tự,… góp phần làm nên những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước.
Thực tế đó cho thấy, tại Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân được tôn trọng và bảo đảm. Đó là sự thật khách quan, không thể phủ nhận. Điều này đã được cộng đồng quốc tế, trong đó có nhiều chính khách nước ngoài chứng kiến và ghi nhận. Phó Chủ tịch Ủy ban tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) M.Cromartie, sau khi tận mắt chứng kiến các buổi sinh hoạt tôn giáo ở một số địa phương, đã phải khẳng định: “Tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam đã được mở rộng và có nhiều tiến bộ, nhiều điểm đáng khích lệ”. Giám đốc Học viện Can dự toàn cầu (IGE), cơ quan tham mưu cho Chính phủ Mỹ về chính sách tự do tôn giáo quốc tế, sau khi đi thăm nhiều nơi ở Việt Nam cũng nhấn mạnh: “Chính phủ Việt Nam đã cho phép tự do tôn giáo tồn tại. Đây là một sự phát triển chứ không phải là một cuộc cách mạng…”. Trong chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam gần đây, Thứ trưởng Ngoại giao Tòa thánh Vatican E. Balestrero đánh giá: Nhà nước Việt Nam tiếp tục nỗ lực thực hiện nhất quán và không ngừng hoàn thiện chính sách tôn trọng và bảo đảm tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Đặc biệt, việc Việt Nam được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014-2016) với số phiếu cao nhất và đã phát huy tốt vai trò thành viên của mình, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Những nỗ lực và thành tựu đã đạt được trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta trong những năm qua là minh chứng khách quan nhất, cơ sở thuyết phục nhất để bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, thù địch về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
                  Cần nhấn mạnh rằng, như mọi hoạt động khác của xã hội, các sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam hay bất kỳ quốc gia nào cũng đều phải trong khuôn khổ pháp luật nhà nước. Những hành vi vi phạm pháp luật của công dân (dù theo đạo hay không theo đạo) cũng đều phải bị xử lý theo luật định. Những năm qua, các cơ quan chức năng đã triển khai nhiều biện pháp đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Trong đó đã bắt giữ, truy tố, xử lý đúng pháp luật nhiều đối tượng lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để tổ chức các hoạt động chống phá Nhà nước. Các cơ quan của Chính phủ và Quốc hội cũng đã và đang tiến hành rà soát hệ thống văn bản luật về tôn giáo, xác định nội dung cần sửa đổi, bổ sung phù hợp với thực tế. Nổi bật là việc ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; trách nhiệm của tổ chức và cá nhân trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo,… tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng như quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người dân và đấu tranh, ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước. Các phương tiện thông tin đại chúng thường xuyên tuyên truyền nâng cao nhận thức cho quần chúng, tín đồ về chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo và ý thức cảnh giác của nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.
                    Trong những năm tới, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, trong xu thế thúc đẩy hòa bình, hợp tác giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu; hoạt động lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo vẫn là chiêu bài được các thế lực thù địch, đối tượng chống đối chế độ triệt để lợi dụng nhằm gây mất ổn định chính trị, xã hội, can thiệp vào nội bộ nước ta. Để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, ngăn chặn hoạt động lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, đòi hỏi công tác này luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo Đảng; sự quản lý, điều hành của Nhà nước; tiếp tục hoàn thiện các chính sách, văn bản pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Thường xuyên nâng cao nhận thức cho nhân dân, tín đồ, chức sắc về chính sách của Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo, từ đó nâng cao ý thức, trách nhiệm cho nhân dân, tín đồ, chức sắc trong việc tham gia vào công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động này. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và đấu tranh đối ngoại; tận dụng các kênh, nhất là truyền thông, nhằm làm cho cộng đồng hiểu đúng chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và thành tựu đã đạt được trong đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở nước ta, góp phần đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu xuyên tạc, vu cáo về nhân quyền, tôn giáo ở Việt Nam.
                    Đấu tranh với các thế lực thù địch lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới đất nước là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài. Điều đó đòi hỏi sự kiên quyết, kiên trì, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, trong đó có đồng bào tôn giáo.
                                                              NGUYỄN XUÂN QUỲNH

Thứ Hai, 5 tháng 6, 2017

VIỆT NAM KHÔNG BAO GIỜ LIÊN MINH VỚI MỘT NƯỚC KHÁC ĐỂ CHỐNG LẠI NƯỚC THỨ BA

                    Quan điểm, chủ trương, chính sách đối ngoại của Việt Nam là rất rõ ràng. Trong quan hệ đối ngoại, Việt Nam luôn kiên trì phương châm là bạn với tất cả các nước, đa phương hóa, đa dạng hóa trên cơ sở độc lập tự chủ và nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Mục đích của Việt Nam là tạo được lợi ích chung với các nước-đó là duy trì hòa bình, ổn định. Việt Nam đã nhiều lần khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ. Việt Nam không bao giờ liên minh, liên kết với một nước khác để chống lại nước thứ ba, không đi với nước này để chống nước kia...
                   Từ đầu năm 2017 đến nay, lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Chính phủ ta đã có hàng loạt hoạt động ngoại giao với các nước trên thế giới, nhất là các nước lớn, các nước láng giềng. Đây là những hoạt động bình thường nhằm tiếp tục triển khai toàn diện, đồng bộ công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta nhằm mở rộng quan hệ quốc tế, tiếp tục duy trì và nâng cao các quan hệ đã có, góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, lãnh thổ và lợi ích quốc gia-dân tộc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, củng cố quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước, đẩy mạnh hội nhập quốc tế, thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, tiếp tục nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam.
                   Thế nhưng bên cạnh những cái nhìn thiện cảm, những nhận định, đánh giá khách quan về vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng và thành công từ những chuyến thăm và các hoạt động ngoại giao nổi bật ấy, đây đó vẫn còn những cái nhìn thiển cận, những ý kiến phiến diện, suy diễn chủ quan của một số nhân vật thiếu thiện chí, phần tử bất mãn, phản động chuyên tìm cách chống phá Việt Nam. Cả trước, trong và sau mỗi chuyến thăm, thông qua một vài trang mạng ở nước ngoài, những nhân vật ấy lại cố tình xuyên tạc về mục đích, ý nghĩa và kết quả các chuyến thăm. Đáng lưu ý có người hồ đồ nói rằng, Việt Nam đang có sự điều chỉnh trong quan hệ đối ngoại nhằm tìm kiếm đối tác chiến lược, thiết lập liên minh mới để đối phó với những quốc gia đang gây áp lực với mình... Lại có kẻ còn trắng trợn nói rằng, Việt Nam đang ngấm ngầm “theo chân” nước này để chống nước kia... 
                  Một điều chúng ta chẳng lạ là trong thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với cách mạng Việt Nam, đối ngoại là lĩnh vực trọng điểm mà các thế lực thù địch, phản động nhằm vào để chống phá. Bằng nhiều chiêu trò, chúng mưu toan đẩy mạnh tuyên truyền, tán phát những thông tin sai lệch, bịa đặt, phủ nhận những thành tựu của công tác đối ngoại, xuyên tạc quan điểm, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước và quan hệ của Việt Nam với các nước đối tác; xuyên tạc đường lối, phương châm đối ngoại, hòng gây nghi kỵ quan hệ giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới, hạ thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế...
Những động thái nói trên không có gì mới và không nhằm mục đích nào khác là tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, đi ngược lại lợi ích quốc gia-dân tộc, chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước đối tác, nhất là các nước lớn, các nước láng giềng, phá hoại môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước của nhân dân Việt Nam.
                 Dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng những năm qua, đặc biệt trong hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng trong công tác đối ngoại. Quan hệ của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên toàn thế giới ngày càng được mở rộng, đi vào chiều sâu, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Quan hệ đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng được mở rộng và tăng cường với các chính đảng ở các nước khác nhau trên thế giới theo hướng đa phương và đa dạng hóa các quan hệ. Công tác đối ngoại của Đảng cùng ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân được kết hợp hài hòa đã tạo nên những thắng lợi to lớn trên mặt trận ngoại giao, góp phần tạo nên môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước... Dù có giở chiêu trò gì đi chăng nữa, các thế lực thù địch, phản động cũng không thể phủ nhận được những thành tựu trong công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.
                  Quan điểm, chủ trương, chính sách đối ngoại của Việt Nam là rất rõ ràng. Trong quan hệ đối ngoại, Việt Nam luôn kiên trì phương châm là bạn với tất cả các nước, đa phương hóa, đa dạng hóa trên cơ sở độc lập tự chủ và nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Mục đích của Việt Nam là tạo được lợi ích chung với các nước-đó là duy trì hòa bình, ổn định. Việt Nam đã nhiều lần khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ. Việt Nam không bao giờ liên minh, liên kết với một nước khác để chống lại nước thứ ba, không đi với nước này để chống nước kia. 
                 Trong giải quyết những vấn đề nhạy cảm, phức tạp, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã nhiều lần khẳng định là phải trên cơ sở quán triệt và thực hiện tốt đường lối đối ngoại hòa bình hữu nghị, độc lập, tự chủ... bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế... Chủ trương và cách giải quyết đó của Đảng, Nhà nước Việt Nam đã tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân cũng như toàn xã hội, được dư luận quốc tế đồng tình ủng hộ.
                Trước những diễn biến mới của tình hình thế giới, khu vực và trong nước, mục tiêu, nhiệm vụ của công tác đối ngoại được Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII là: “Bảo đảm lợi ích quốc gia-dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế nhằm “phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
                Như vậy có thể thấy, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam là rất rõ ràng, phù hợp với xu thế chung của thế giới. Những gì đã được Đảng Cộng sản Việt Nam đề cập trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII thêm một lần nữa khẳng định: Việt Nam không bao giờ liên minh với một nước khác để chống lại nước thứ ba. Nếu ai đó nói rằng Việt Nam dựa vào nước này để chống nước kia thì đó là hành động cố tình xuyên tạc, bịa đặt nhằm mưu đồ xấu, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam, hòng làm cho tình hình thêm phức tạp, gây hoài nghi, mất ổn định, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Để không mắc mưu dẫn đến tiếp tay cho chúng, mọi cán bộ, đảng viên, công chức và nhân dân ta cần đề cao cảnh giác, chủ động phát hiện, kiên quyết đấu tranh, phản bác, loại bỏ những luận điệu ấy ra khỏi đời sống trong nước và quan hệ hợp tác quốc tế.
                                                                                  SONG HÙNG

LUẬN ĐIỆU "TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LÀ LÝ THUYẾT, GIÁO ĐIỀU" - SỰ XUYÊN TẠC TRẮNG TRỢN

                Xuyên tạc, bóp méo, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những luận điệu mà các thế lực thù địch đang đẩy mạnh, nhằm phá hoại và làm thay đổi nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do đó, nhận diện, đấu tranh kiên quyết với những luận điệu phản động ấy là vấn đề cấp thiết hiện nay.
               Thời gian qua, các thế lực thù địch liên tục đưa ra những lý lẽ vô căn cứ, như: “Hồ Chí Minh du nhập những tư tưởng ngoại lai vào Việt Nam”, “Hồ Chí Minh đi trên cỗ xe Nho giáo đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin”,... cho rằng “tư tưởng Hồ Chí Minh là lý thuyết, giáo điều”. Những luận điệu đó là sự xuyên tạc trắng trợn; bởi chúng đã cố tình bỏ qua phương pháp luận khoa học trong xem xét, đánh giá tư tưởng của một con người, hệ tư tưởng của một giai cấp. Chúng ta đều biết, một tư tưởng, hệ tư tưởng được đánh giá là cách mạng, khoa học khi và chỉ khi xuất phát và phản ánh đúng thực tiễn, soi đường cho hoạt động thực tiễn, thúc đẩy thực tiễn phát triển. Tư tưởng Hồ Chí Minh là như vậy.
                Trước hết, trên phương diện lý luận, tư tưởng của Hồ Chí Minh được hình thành, phát triển trên cơ sở kế thừa, chọn lọc những tư tưởng, giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, phù hợp với thực tiễn hoàn cảnh lịch sử nước ta cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đồng thời, tiếp thu và vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hóa nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chúng ta có thể khẳng định rằng, cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà hạt nhân lý luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Với thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và một trí tuệ sắc sảo, khả năng tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, chuyển hóa được những nhân tố tích cực, tiến bộ của truyền thống dân tộc và của nhân loại để hình thành nên hệ thống tư tưởng của mình. Đó là hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, tiêu biểu là tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, v.v. Tư tưởng ấy không chỉ giải quyết vấn đề về tư duy lý luận mà cao hơn là tư duy hành động, giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
                  Nhìn lại lịch sử, từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào đấu tranh đánh đuổi ngoại xâm của nhân dân Việt Nam đã liên tục nổ ra, với nhiều hệ tư tưởng khác nhau, như: giai cấp phong kiến (phong trào Cần Vương), dân chủ tiểu tư sản (Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh), giai cấp nông dân (Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Trung Trực),... nhưng đều bị thất bại. Chỉ đến khi tư tưởng, đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh được xác lập trên lập trường giai cấp công nhân và khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” với nội dung cốt lõi của tư tưởng đó là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”, đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng đường lối cứu nước và mở ra trang mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, cách mạng Việt Nam đã liên tục giành những thắng lợi to lớn, từ đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân, đế quốc, đến thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước, để nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc như ngày hôm nay. Vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh đâu phải là sự “vay mượn”, “du nhập những tư tưởng ngoại lai”, hoặc là “Người đi trên cỗ xe Nho giáo”; và rằng “tư tưởng Hồ Chí Minh là lý thuyết, giáo điều”. Thực chất những luận điệu đó chỉ là sự bịa đặt, nhằm phủ nhận, xóa nhòa bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.
                 Điểm nữa là, hệ thống tư tưởng của Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam luôn thống nhất, hòa quyện với nhau trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng. Đường lối của Đảng dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng luôn soi sáng đường lối, quan điểm của Đảng ta. Điều đó được thể hiện rất rõ qua việc chuẩn bị thành lập và xây dựng Cương lĩnh hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh đã trực tiếp soạn thảo “Chánh cương vắn tắt của Đảng”, “Sách lược vắn tắt của Đảng”, “Chương trình tóm tắt của Đảng”, “Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam”, v.v. Những văn kiện đó đã trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta. Trong đó, “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” và độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là những luận điểm cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh và là mục tiêu của cách mạng Việt Nam. Khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền - Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng; coi đó vấn đề có tính quy luật, quyết định sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hồ Chí Minh thường xuyên yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thực sự là “con nòi” của dân tộc, là đạo đức, là văn minh; phải thường xuyên đổi mới, xây dựng Đảng vững mạnh, đủ năng lực lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Điều đó vừa mang tính thực tiễn, vừa có dự báo tương lai.
                Không chỉ nêu những quan điểm về xây dựng Đảng cách mệnh chân chính, mà hệ thống quan điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về mục tiêu, con đường, phương pháp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới ở nước ta đã là cơ sở cho đường lối, quan điểm của Đảng. Trong đó, “giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản” là quan điểm có tính quyết định đến vận mệnh dân tộc, là con đường duy nhất đúng của dân tộc ta và được Hồ Chí Minh vận dụng một cách khoa học trên cơ sở lý luận, thực tiễn cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Về tập hợp lực lượng cách mạng, Hồ Chí Minh khẳng định “Công, nông là gốc của cách mạng, còn học trò, nhà buôn điền chủ nhỏ là bầu bạn của cách mạng”; và để có lực lượng cách mạng, phải đoàn kết dân tộc kết hợp với đoàn kết quốc tế. Hồ Chí Minh xác định rõ, chủ nghĩa đế quốc, thực dân và bọn phong kiến tay sai ôm chân đế quốc là kẻ thù của dân tộc, kẻ thù của nhân dân. Điều đó hoàn toàn phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ. Trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, Hồ Chí Minh đã nêu phương hướng, quyết tâm chiến lược của cách mạng Việt Nam là “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” và thực tiễn đã diễn ra đúng như vậy.
                Mặt khác, thực tiễn đã và đang chứng minh hùng hồn “tư tưởng Hồ Chí Minh không bao giờ là tư biện, lý thuyết, giáo điều”. Hay nói theo cách khác, tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự đúc kết từ thực tiễn và được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm hoàn toàn đúng đắn và phù hợp. Ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh được thừa hưởng một nền giáo dục “yêu nước, thương dân” từ gia đình, quê hương, đất nước. Hành trình tìm đường cứu nước, cứu dân gần 30 năm, đi đến khoảng 40 nước trên khắp các châu lục, Hồ Chí Minh luôn “tự làm giàu tri thức” của mình bằng phương pháp tự học và đúc kết thực tiễn cách mạng thế giới để “về giúp đồng bào mình” thực hiện sự nghiệp giải phóng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh, toàn dân, toàn quân ta đã tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ giá trị, tầm ảnh hưởng của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, Bộ Chính trị (khóa XII) ban hành Chỉ thị 05-CT/TW về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Điều đó chứng tỏ tư tưởng Hồ Chí Minh không thể là “lý thuyết suông” mà là lý thuyết được bắt nguồn từ thực tiễn, được thực tiễn kiểm nghiệm và trở lại phục vụ thực tiễn.
                 Từ lý luận, thực tiễn trên, một lần nữa chúng ta khẳng định luận điệu cho rằng “Tư tưởng Hồ Chí Minh là lý thuyết, giáo điều” chỉ là sự xuyên tạc trắng trợn của các thế lực thù địch, phản động, hòng phủ nhận bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh, với ý đồ đen tối xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh trong lòng nhân dân ta và bạn bè quốc tế; làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thiếu tin tưởng vào tư tưởng của Hồ Chí Minh. Vì thế, hơn lúc nào hết, chúng ta phải cảnh giác, kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu rác rưởi, phản động, phản khoa học này, góp phần bảo vệ giá trị trường tồn và tính khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện nay. Đây là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của mọi tổ chức, mọi lực lượng.
                Thực hiện điều đó, vấn đề nhất quán, xuyên suốt của chúng ta là phải tiếp tục khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm sâu sắc, toàn diện, khoa học, cách mạng, là một bộ phận không tách rời hệ tư tưởng của giai cấp công nhân - chủ nghĩa Mác – Lê-nin; “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và của dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”3. Do đó, phải tăng cường nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh, tích cực làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh thấm sâu, trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống tinh thần của nhân dân và toàn xã hội. Hành động thiết thực nhất là mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng tiếp tục đẩy mạnh thực hiện việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; việc làm đó phải thường xuyên, trở thành một nhu cầu văn hóa sâu sắc, bền bỉ và rộng khắp trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Đó cũng là cách thiết thực nhất, hiệu quả nhất để đấu tranh, phản bác những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh và nền tảng tư tưởng của Đảng ta.
                                                     Đại tá, TS. NGUYỄN SỸ HỌA, Học viện Lục quân