Thứ Ba, 5 tháng 7, 2016

NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ VIỆC XỬ LÝ SỰ CỐ MÔI TRƯỜNG

          Việc Chính phủ chiều 30-6-2016 vừa qua công bố nguyên nhân và những biện pháp xử lý hiện tượng hải sản chết hàng loạt tại biển miền Trung đã bước đầu làm sáng tỏ vụ việc và khẳng định quan điểm kiên quyết của Đảng, Nhà nước ta trong đấu tranh với những hành vi xâm hại môi trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân.

          Nhân dân cả nước đồng tình, hoan nghênh và tin tưởng ở chủ trương, biện pháp của Đảng, Nhà nước ta trước sự cố lần đầu xuất hiện, có nhiều phức tạp, khó lường. Tuy nhiên, sự việc cũng để lại cho chúng ta nhiều bài học quý giá về sự cảnh giác, không để những “lỗ hổng” cho kẻ xấu lợi dụng phá hoại sự ổn định, phát triển của đất nước.
          Bình tĩnh, tỉnh táo
          Suốt 3 tháng qua, sự việc hải sản chết bất thường đã làm nóng dư luận. Một sự cố môi trường nghiêm trọng khiến người dân cả nước lo lắng, bức xúc là điều dễ hiểu. Nhưng lợi dụng vụ việc, một số đối tượng đã công kích, chống phá. Chúng dựng chuyện, xuyên tạc Đảng, Nhà nước ta “nhận tiền bảo kê”, bưng bít thông tin, bao che, đồng lõa cho sai phạm của Công ty Formosa Hà Tĩnh nên để sự việc bị chậm trễ, “chìm xuồng”.
          Trước hết, cần khẳng định, nước nóng không chữa được bỏng nặng. Để vừa điều tra, làm rõ nguyên nhân, thủ phạm gây ra sự cố, vừa có giải pháp khắc phục, ổn định tình hình, hỗ trợ người dân gặp khó khăn, vừa buộc đối tượng vi phạm thừa nhận sai phạm, cam kết bồi thường, khắc phục… đòi hỏi mất nhiều công sức và thời gian, không thể nóng vội.
          Tìm hiểu thông tin từ báo chí quốc tế, ngay cả ở nhiều quốc gia trên thế giới, để tìm ra nguyên nhân và thủ phạm các vụ gây cá chết quy mô lớn đều rất khó khăn. Nhiều nơi còn không tìm ra thủ phạm hoặc bị nghi phạm “phản pháo”, làm sự việc tranh cãi kéo dài. Với sự cố môi trường ở miền Trung, báo cáo của cơ quan chức năng cho biết, Tập đoàn Formosa đã từng gây ra một số vụ việc ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cả ở Đài Loan và một số nước như: Cam-pu-chia, Mỹ, Nhật Bản... và đã nhiều lần lợi dụng kẽ hở pháp lý của nhiều nước để né tránh bồi thường. Báo chí quốc tế cho biết, năm 1999, Tập đoàn Formosa Plastics bị phát hiện xả 3.000 tấn chất độc hại ra một thị trấn ven biển của Cam-pu-chia nhưng phải qua nhiều đấu tranh, Formosa mới công khai xin lỗi và bị buộc phải dọn dẹp đống chất thải, đưa tới xử lý tại Mỹ. Ngay tại Mỹ, Formosa cũng từng gây ô nhiễm nước ngầm xung quanh một nhà máy, sau nhiều đấu tranh pháp lý, đối tượng sai phạm phải nộp phạt 1 triệu USD.
          Từ các thông tin trên cho thấy, Đảng, Nhà nước ta xác định: “Tích cực, khẩn trương, thận trọng, khách quan, khoa học, chính xác, chặt chẽ, đúng pháp luật” trong điều tra vụ việc là chủ trương đúng đắn. “Xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật, không bao che bất kỳ một tổ chức và cá nhân nào”-Đó cũng là quan điểm của Đảng, Nhà nước ta và là cụm từ được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhiều lần khẳng định trong các chỉ đạo của Chính phủ.
          Để điều tra, một Hội đồng chuyên gia khoa học và công nghệ quốc gia gồm 3 tổ, hội tụ hơn 100 chuyên gia của hơn 30 viện nghiên cứu, trường đại học của nhiều nước có uy tín trên thế giới như: Nhật Bản, Pháp, Đức, Mỹ, I-xra-en cùng Hội đồng phản biện đã được thành lập. Nhờ điều tra công phu, trên diện rộng, đối chiếu, loại trừ nhiều nguyên nhân, tìm ra những bằng chứng không thể chối cãi đã khiến đối tượng vi phạm phải “cúi đầu nhận sai phạm” một cách tâm phục khẩu phục.
          Câu trả lời báo chí của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà đã cho thấy rất rõ vai trò chỉ đạo, xử lý của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta; hoàn toàn không có việc chậm trễ, “bảo kê” như thông tin xuyên tạc. Bộ trưởng khẳng định: “Ban đầu khi xác minh, nổi lên ba cơ sở là: Formosa Hà Tĩnh, Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng và Khu công nghiệp Hà Tĩnh. Phải kiểm tra, rà soát tất cả cơ sở công nghiệp trong vùng vì khi chưa kiểm tra, chưa có cơ sở pháp lý đầy đủ thì không cho phép “kết tội một ai”. Tôi khẳng định, Chính phủ không bao che mà làm theo trình tự một cách khoa học, đúng quy định pháp luật trong nước và quốc tế. Bộ Chính trị, Thủ tướng, các Phó thủ tướng, Bộ trưởng nhiều bộ và chính quyền địa phương đã chỉ đạo vào cuộc rất quyết liệt. Các nhà khoa học trong và ngoài nước đã làm việc hết mình bất kể ngày đêm…”.
          Vụ việc một lần nữa cho thấy, bài học tỉnh táo trong những tình huống phức tạp vẫn nguyên giá trị. Nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan trong một bài viết gần đây đã đưa ra hình ảnh khuyến nghị người dân cần có “trái tim nóng và cái đầu lạnh” trong nhìn nhận các vấn đề xã hội bức xúc. Cách xử lý nhiều vụ việc đối với lãnh đạo Đảng, Nhà nước phải luôn bình tĩnh, tỉnh táo, trên tầm cao chiến lược, không thể nóng nảy, vội vàng. Có nhiều sự việc phải qua độ lùi thời gian mọi người mới hiểu hết tính đúng đắn của những chủ trương, quyết sách. Cho nên, sự bình tĩnh, đồng thuận của xã hội là chất xúc tác rất cần thiết.
          “An dân”, xây đi đôi với chống
          Thực tế cũng phủ định hoàn toàn luận điệu của những kẻ xấu cáo buộc Đảng, Chính phủ “vô cảm” trước cuộc sống của người dân, bị thao túng bởi nước ngoài.
          Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà đã khẳng định: Bộ Chính trị đã vào cuộc rất quyết liệt và đưa chủ trương chỉ đạo sát sao theo từng diễn biến sự việc. Trên thực tế, trong những tình huống phức tạp, chưa bao giờ thiếu vắng vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý, điều hành của Chính phủ. Ngay sau phiên họp đầu tiên của Chính phủ liên quan đến vụ việc cá chết, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo quyết liệt các ban, bộ, ngành, địa phương giải quyết 9 nội dung liên quan sự việc, hơn 30 bộ, ngành tham gia thu thập chứng cứ, xác minh. Không thể nói Đảng, Nhà nước ta “vô cảm”, “chậm trễ” khi mà đến nay, Chính phủ đã ban hành tới 28 văn bản chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương xử lý các vấn đề liên quan tới vụ việc. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Y tế công bố ngư trường và danh mục hải sản an toàn, công bố vùng biển đánh bắt an toàn; giải pháp thu mua hải sản an toàn, hỗ trợ thu mua hải sản… Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 722/QĐ-TTg ngày 9-5-2016 hỗ trợ khẩn cấp cho người dân vùng bị thiệt hại với nhiều chính sách hỗ trợ gạo, tiền ra khơi, vay vốn, khắc phục hậu quả môi trường...
          Phát biểu tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân cho biết, đã thành lập 4 Đoàn giám sát của Trung ương tại 4 tỉnh về công tác hỗ trợ của Chính phủ đối với nhân dân bị thiệt hại, bảo đảm kịp thời, đúng đối tượng, ít sai sót. Các địa phương đã hỗ trợ 4.309 tấn gạo đến 40.043 hộ dân; hỗ trợ các hộ nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại hơn 9,825 tỷ đồng; hỗ trợ cho 8.111 chủ tàu, thuyền ngừng khai thác.
          Đặc biệt, trong sự việc này, chúng ta đã triển khai hiệu quả các biện pháp chủ động ngăn chặn các hoạt động lợi dụng sự cố để kích động, chống phá. Công an các tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng Bình, TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và các địa phương đã sớm phát hiện, đấu tranh, xử lý các đối tượng có hành vi kích động người dân tuần hành, gây rối. Dù các thế lực chống phá bằng những khẩu hiệu kích động “cá cần nước sạch, dân cần minh bạch”, lôi kéo người dân thực hiện hơn 10 cuộc tụ tập, tuần hành nhưng âm mưu tạo ra các cuộc “biểu tình” quy mô lớn, tạo phong trào “cả nước xuống đường”, “cách mạng cá” và các cuộc “bạo động”, đập phá nhà máy nước ngoài của chúng đã thất bại. Dù nhiều tổ chức “xã hội dân sự” lập nhóm “Cứu môi trường”, gửi thỉnh nguyện thư kêu gọi nước ngoài can thiệp, thổi phồng nguy cơ “mất nước”, “mất đất” nhưng tuyệt đại đa số nhân dân vẫn tin tưởng, ủng hộ chủ trương, biện pháp giải quyết của Đảng, Nhà nước ta, không bị mắc mưu kẻ xấu.
          Bằng sự vào cuộc chủ động, tích cực, kiên quyết và tỉnh táo, chúng ta đã không để xảy ra các vụ việc gây rối, giữ vững được môi trường đầu tư, ổn định sản xuất. Tuy nhiên, để giữ nghiêm kỷ cương phép nước, không để tái diễn âm mưu lợi dụng các sự cố kinh tế để phá hoại, rất cần các cơ quan pháp luật sớm điều tra, xử lý nghiêm minh những đối tượng phá hoại, công khai để răn đe.
          Thận trọng trong xử lý thông tin
          Sự cố còn để lại nhiều bài học quý giá về xử lý thông tin. Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn, cho biết: “Thời gian vừa qua, dư luận trên các trang mạng xã hội có nhiều ý kiến phản ứng về sự chậm trễ công bố nguyên nhân cá chết. Tôi cho rằng bức xúc đó là chính đáng, dễ hiểu bởi sự cố này liên quan tới sự an lành của đất nước, đời sống của người dân, đặc biệt là đời sống của hàng chục nghìn ngư dân các tỉnh miền Trung. Tuy nhiên, sự phản ứng thái quá, sự suy diễn không dựa trên kết quả điều tra đã làm nhiễu loạn thông tin, gây bất lợi cho quá trình điều tra… Đảng và Nhà nước không hề có chủ trương che giấu thông tin. Tuy nhiên, đã có một thời gian, để tạo thuận lợi cho quá trình điều tra, chúng tôi đề nghị các cơ quan truyền thông hoạt động theo đúng Luật Báo chí và giảm liều lượng, tạm ngừng thông tin, không suy diễn, quy chụp. Trong một sự cố phức tạp và nghiêm trọng như vụ cá chết vừa rồi, các nhà báo không đủ khả năng để tìm ra thủ phạm. Sự điều tra của báo chí cũng không thể thay thế sự điều tra của các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan chuyên môn và các nhà khoa học”.
          Đây là quan điểm phù hợp với các quy định của Luật Báo chí và các đạo luật khác hiện hành. Với một sự việc rất phức tạp, chỉ đấu tranh trên báo chí có lẽ là chưa đủ. Nếu không có sự kết hợp chặt chẽ, tổng hợp giữa đấu tranh khoa học và đấu tranh pháp lý cùng với đấu tranh ngoại giao, sẽ rất khó đạt kết quả là làm sáng tỏ sự việc và đạt các yêu cầu đề ra.
          Đảng, Nhà nước ta luôn đánh giá cao vai trò của “binh chủng” báo chí trong đấu tranh với tiêu cực, tham nhũng. Song trong mọi cuộc đấu tranh, luôn cần những biện pháp, hình thức, bước đi linh hoạt. Kết quả làm sáng tỏ sự cố môi trường ở miền Trung có vai trò rất lớn của báo chí, truyền thông nhưng cũng có thông tin được đưa vội vàng, thiếu kiểm chứng; không chỉ bị kẻ xấu lợi dụng xuyên tạc mà còn gây hoang mang cho chính cộng đồng. Chẳng hạn như thông tin ngao chết, sứa chết ở Cồn Vành (Thái Bình) được một thanh niên tung lên trang tin điện tử cá nhân nhưng lại được một số báo dẫn lại, lan truyền đúng lúc sự cố cá chết đang gây lo lắng ở biển miền Trung dễ làm người dân ở Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng cũng hoang mang theo. Nhưng từ đây, có thêm bài học về sự vào cuộc, xử lý kịp thời. Đồng chí Nguyễn Hồng Diên, Chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình đã trực tiếp đi kiểm tra, thị sát thông tin trong ngày và chỉ đạo cơ quan công an điều tra, bắt được thủ phạm đưa tin sai sự thật, công bố công khai, giúp nhanh chóng ổn định tình hình.
          Tin tưởng rằng, với quan điểm nhất quán và sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các cơ quan quản lý và chính quyền địa phương sẽ rút ra được những bài học để có giải pháp mạnh mẽ, hiệu quả, kịp thời hơn trong công tác quản lý kinh tế, quản lý đầu tư, quản lý môi trường; khắc phục sự cố và không để tái diễn những sai phạm tương tự. Trên cơ sở đó, kết hợp chặt chẽ giữa bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội với an ninh kinh tế, an ninh môi trường. Thường xuyên chăm lo, giải quyết hài hòa bài toán về các mâu thuẫn giữa phát triển nhanh và bền vững, giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, giữa trải thảm đỏ thu hút đầu tư và bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng.
                             CÔNG MINH - NGUYÊN MINH


BÁO CHÍ VÌ SỰ PHÁT TRIỂN LÀNH MẠNH CỦA XÃ HỘI

          Tự do báo chí là một quan niệm khá mở. Các quốc gia, các thể chế chính trị trên thế giới thường có quan niệm không giống nhau, không đồng nhất với nhau về tự do báo chí. Nhưng có một giá trị chung mà phần lớn các quốc gia có xu hướng tiến bộ đều thừa nhận, đó là: Bảo đảm quyền tự do báo chí phải hướng tới xây dựng một xã hội phát triển ổn định, lành mạnh, nhân văn.

          1- Cách đây 7 năm, tại Lớp bồi dưỡng ngắn hạn “Phóng sự điều tra” do Hội Nhà báo Việt Nam và Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tổ chức tại TP Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh), ông Rô-đê-rích Mắc Đô-nen, Giám đốc Truyền thông Liên bang Ca-na-đa, có chia sẻ với các nhà báo Việt Nam rằng, phóng viên làm phóng sự điều tra nhằm đưa ra ánh sáng công luận những vấn đề tiêu cực, khuất tất trong xã hội, nhưng việc điều tra đó phải mang lại lợi ích cho số đông công chúng và lợi ích cho quốc gia, dân tộc, chứ không phải vì lợi ích của một nhóm thiểu số nào đó. Nói rộng ra, báo chí có quyền tự do thông tin, nhưng thông tin đó không làm ảnh hưởng đến sự phát triển ổn định, lành mạnh của xã hội.
          2- Trên thế giới, có thể chế chính trị, quốc gia nào có tự do báo chí tuyệt đối không? Các nhà nghiên cứu đều khẳng định, không thể có tự do báo chí tuyệt đối, mà chỉ có tự do báo chí có giới hạn. Cái giới hạn đó tùy thuộc vào quan niệm của mỗi nước, nhưng chắc chắn việc giới hạn tự do báo chí bao giờ cũng phải hướng tới mục tiêu tối thượng là: “Mỗi người đều có nghĩa vụ đối với cộng đồng, trong khi hưởng thụ các quyền tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền tự do của người khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi trong một xã hội dân chủ” như Điều 29 của “Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền” (năm 1948) của Liên hợp quốc đã khẳng định.
          Thực tiễn lịch sử báo chí thế giới đã chứng minh rằng, không có một nền báo chí của quốc gia nào, một cơ quan báo chí, một nhà báo nào được quyền “đứng trên”, “đứng ngoài” pháp luật hay không tuân thủ những phép tắc, chuẩn mực, phong tục, tập quán của cộng đồng dân tộc. Cố tình làm trái những nguyên tắc sơ đẳng này, báo chí có thể phải trả giá đắt.
          Những quốc gia có nền báo chí tiến bộ, những nhà báo chân chính sẽ không bao giờ quên những vụ việc “kinh điển” truyền thông đi quá giới hạn tự do nên đã để lại những hậu quả rất xấu. Năm 2005, một tờ báo của Đan Mạch đăng tải 12 bức tranh biếm họa về đấng tiên tri Mô-ha-mét của Hồi giáo, đã gây nên một làn sóng phẫn nộ mạnh mẽ của những người theo đạo Hồi trên toàn thế giới. Tháng 7-2011, tờ News of the World (Tin tức thế giới), tờ báo “lá cải” lớn nhất nước Anh đã phải đình bản vĩnh viễn sau gần 170 năm tồn tại vì hàng loạt cáo buộc nhiều phóng viên bản báo đã đột nhập điện thoại của hàng nghìn người dân để “săn tin” bất chấp đạo đức và luật pháp.
           3- Khi nói về tự do báo chí ở Việt Nam, một vài tổ chức phi chính phủ ở nước ngoài và một số cá nhân có thái độ thiếu thiện chí vẫn viện cớ rằng, Việt Nam không có tự do báo chí vì “không có truyền thông độc lập, báo chí bị Đảng Cộng sản và chính quyền điều khiển, chi phối” và “một số nhà báo, nhà bất đồng chính kiến mạng bị cầm tù vì những phát biểu của họ” (!).
          Thực ra, cách viện cớ đó vừa phản ánh không đúng bản chất vấn đề, vừa thể hiện cái nhìn phiến diện, cực đoan và mang dụng ý, mưu đồ xấu.
          Một nền báo chí có được xem là tự do hay không trước hết phải xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ, bản chất, mục đích hoạt động của nó. Kể từ khi Báo Thanh Niên xuất bản số đầu (ngày 21-6-1925) đến nay, báo chí cách mạng Việt Nam đã trải qua 91 năm. So với một số nước trên thế giới, dù ra đời muộn hơn, nhưng suốt chặng đường lịch sử của mình, báo chí cách mạng Việt Nam luôn đồng hành với đất nước, gắn bó với vận mệnh dân tộc, là nhịp cầu nối liền Đảng, Nhà nước với quần chúng lao động. Tính nhân dân của báo chí Việt Nam còn thể hiện sinh động ở chỗ: Các tầng lớp nhân dân có thể bày tỏ chính kiến, tâm tư, nguyện vọng, băn khoăn, vướng mắc… của mình trên tất cả các loại hình báo chí. Nhiều năm qua, trên các tờ báo, tạp chí, đài phát thanh, truyền hình, báo điện tử đã có nhiều chuyên trang, chuyên mục, chương trình làm cầu nối với nhân dân, trở thành diễn đàn sâu rộng của nhân dân như: “Bạn đọc”, “Nhịp cầu khán giả”, “Viết theo yêu cầu bạn đọc”, “Giải đáp chế độ-chính sách”, “Vấn đề dư luận quan tâm”, “Điều tra theo đơn thư bạn đọc”, “Tiếp chuyện bạn nghe đài”, “Dân hỏi-Bộ trưởng trả lời”...
          Mặt khác, tính ưu việt của quyền tự do báo chí ở Việt Nam còn được thể hiện sâu sắc ở Điều 10, Điều 11 Luật Báo chí năm 2016. Trong đó, Điều 10 quy định công dân có quyền: “1. Sáng tạo tác phẩm báo chí; 2. Cung cấp thông tin cho báo chí; 3. Phản hồi thông tin trên báo chí; 4. Tiếp cận thông tin báo chí; 5. Liên kết với cơ quan báo chí thực hiện sản phẩm báo chí; 6. In, phát hành báo in”. Điều 11 quy định công dân có quyền tự do ngôn luận trên báo chí, thể hiện ở các nội dung: “1. Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; 2. Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; 3. Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị xã hội-nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác”. Khoản 3, Điều 13 của luật này cũng quy định rõ: “Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng”.
          Rõ ràng, bản chất của một nền báo chí tự do trước hết phải bắt nguồn từ đối tượng phản ánh và phục vụ. Báo chí Việt Nam luôn xác định “Vì nhân dân phục vụ” là phương châm hành động, là quan điểm nhất quán trong mọi hoạt động của mình.
          Sống trong một xã hội pháp quyền, mọi công dân đều phải thượng tôn pháp luật và bất cứ ai vi phạm pháp luật đều phải xử lý. Việc một số “nhà đấu tranh dân chủ”, “nhà báo tự do”... thời gian qua bị xử lý hình sự không phải xuất phát từ “những phát biểu của họ”, mà là do họ đã đi quá giới hạn tự do báo chí cho phép, thực chất là họ cố tình cho đăng, phát thông tin có nội dung xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính quyền nhân dân; bịa đặt thông tin gây hoang mang dư luận; xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, anh hùng dân tộc... Những hành vi đó là vi phạm pháp luật. Do vậy, việc xử lý những cá nhân vi phạm này cũng không ngoài mục đích góp phần giữ gìn “đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi trong một xã hội dân chủ” như Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc đã khuyến cáo; đồng thời góp phần giữ vững an ninh chính trị, an ninh truyền thông-một yếu tố quan trọng bảo đảm cho xã hội phát triển lành mạnh, văn minh.
                                                          PHÚC NỘI


ĐỂ THANH NIÊN LUÔN VỮNG VÀNG TRƯỚC NHỮNG CHIÊU TRÒ LÔI KÉO, KÍCH ĐỘNG CHỐNG PHÁ

          Thanh niên là một bộ phận quan trọng, là vốn quý và thế mạnh trong chiến lược phát triển đất nước. Tuy nhiên, do đặc điểm tâm lý lứa tuổi và một phần do hạn chế về nhận thức, thanh niên là đối tượng trọng điểm để các thế lực thù địch, phản động mua chuộc, lôi kéo, kích động…, nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.

          Các thế lực phản động, cơ hội, chống đối chính trị… luôn triệt để lợi dụng đặc điểm tâm lý nhạy cảm, ham tiếp cận cái mới, thích tự do, tự khẳng định mình… của thanh niên, trong khi vốn sống và nhận thức chính trị-xã hội của họ còn hạn chế, để dụ dỗ, lôi kéo, tiêm nhiễm bằng cả vật chất và văn hóa, lối sống thực dụng, ngoại lai. Đồng thời, họ cũng lợi dụng những sơ hở, buông lỏng trong công tác quản lý, hoặc một bộ phận thanh niên đua đòi theo trào lưu, lối sống thực dụng, đòi xét lại quá khứ…, để lôi kéo, kích động, tập hợp thanh niên tham gia, hòng gây mất an ninh trật tự, chống đối chính quyền.
          Tiến trình lịch sử và thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, hơn 86 năm qua, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và hơn 85 năm, từ khi Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh được thành lập (26-3-1931) đến nay, thanh niên Việt Nam luôn kiên định phấn đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Thanh niên có vai trò rất quan trọng, là lực lượng nòng cốt trong các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và trong thời kỳ đổi mới, xây dựng đất nước; luôn trọn niềm tin với Đảng, trân trọng, bảo vệ và tiếp nối xứng đáng truyền thống hào hùng của Đảng và dân tộc, của thế hệ cha anh; nêu cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; có ý thức, trách nhiệm, nhiệt huyết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
          Từ năm 1925, tổ chức cách mạng Việt Nam đầu tiên có xu hướng cộng sản ra đời với tên gọi: Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, với 9 hội viên, cũng là những thanh niên Việt Nam đầu tiên, góp phần đặt nền móng cho sự ra đời của Đảng ta vào năm 1930. Trong các phong trào cách mạng trước năm 1945, nhiều thanh niên Việt Nam được giác ngộ cách mạng đã tự nguyện gia nhập, hoặc làm cán bộ chỉ huy lực lượng Thanh niên phản đế, các đội tự vệ, du kích, Mặt trận Việt Minh… để tham gia đấu tranh giành chính quyền.
          Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc, hàng triệu thanh niên là lực lượng chủ yếu tham gia bộ đội, dân quân, du kích chiến đấu, cùng với hàng vạn thanh niên xung phong phục vụ chiến đấu, xung kích xây dựng các tuyến đường giao thông huyết mạch, vận chuyển vũ khí, lương thực, quân trang, quân dụng cho các chiến dịch… Đất nước thống nhất, thanh niên tiếp tục là lực lượng đông đảo, xung kích tham gia khắc phục hậu quả chiến tranh; sáng tạo, cống hiến hết mình cho sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần to lớn phát triển kinh tế đất nước và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Thực tiễn trên là kết quả của mối quan hệ tương tác, biện chứng giữa Đảng với thanh niên và thanh niên với Đảng, vừa khẳng định sự khác biệt về bản chất giữa thanh niên Việt Nam với thanh niên tư sản; đồng thời thể hiện rõ sự tôi luyện, trưởng thành không ngừng về bản lĩnh và trí tuệ của lớp lớp thế hệ trẻ Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
          Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà, nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần do các thanh niên”. Với vai trò lãnh đạo công tác thanh niên và trực tiếp lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đảng xác định: Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước. Thanh niên luôn được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước. Trong mỗi nhiệm vụ chiến lược của đất nước, nhất là trước những biến động, đòi hỏi từ tình hình an ninh chính trị trong nước và thế giới, Đảng ta luôn vững vàng, kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc, sáng suốt đề ra đường lối, chính sách đúng đắn, huy động tối đa sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc cùng hướng vào mục tiêu cao cả; đồng thời Đảng luôn là chỗ dựa chính trị tinh thần vững chắc, hướng dẫn, động viên thanh niên phát huy mạnh mẽ tài năng, sức lực cống hiến cho Tổ quốc và nhân dân.
          Được sự quan tâm chăm lo, dìu dắt của Đảng, Nhà nước, được tổ chức Đoàn các cấp tuyên truyền, vận động, tập hợp tham gia các đợt sinh hoạt chính trị, các phong trào hành động…, phần lớn thanh niên Việt Nam luôn đề cao nhận thức và trách nhiệm, tự nguyện phấn đấu theo mục tiêu, lý tưởng của Đảng, tích cực tham gia xây dựng Đảng; thể hiện quan điểm, thái độ đúng đắn trước các sự kiện chính trị trong nước và diễn biến tình hình khu vực, thế giới. Nhiều đoàn viên, thanh niên chủ động, thẳng thắn đấu tranh với những luận điệu sai trái, thù địch, phê phán mọi biểu hiện nhận thức, hạn chế lệch lạc và hành vi tiêu cực, góp phần đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, âm mưu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của các thế lực thù địch.
          Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích, kết quả đã đạt được, theo đánh giá tại các văn kiện của Đảng và của Đoàn thì công tác giáo dục chính trị tư tưởng của Đoàn chưa tác động sâu sắc đến đông đảo đoàn viên, thanh niên; công tác tuyên truyền, định hướng lý tưởng, giáo dục đạo đức lối sống chưa thường xuyên. Công tác nắm, định hướng tư tưởng thanh niên, có lúc, có nơi chưa kịp thời. Việc giáo dục, ngăn ngừa và đấu tranh với những tác động, lôi kéo thanh niên của các thế lực thù địch, sự truyền bá lối sống ngoại lai không phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc còn những bất cập, yếu kém. Một bộ phận thanh niên có biểu hiện mờ nhạt về lý tưởng, dễ dao động về lập trường chính trị, lệch lạc về giá trị đạo đức, sống ích kỷ, thiếu trách nhiệm... Những bất cập, hạn chế trên đã và đang ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả công tác Đoàn và phong trào thanh niên; rộng hơn có thể ảnh hưởng đến công tác xây dựng Đảng, nhất là làm cho một bộ phận thanh niên không còn thiết tha đến với tổ chức đoàn, thậm chí đứng ngoài các phong trào của tuổi trẻ.
          Thực tế tại Liên Xô (trước đây), vào thời điểm những năm 90 của thế kỷ trước, do những biến động về chính trị, Đảng Cộng sản đã dần đánh mất vai trò lãnh đạo đất nước, lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản, cùng sự chống phá của các thế lực ở trong và ngoài nước, nên thời điểm trước khi Liên Xô sụp đổ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Côm-xô-môn đã không còn là tổ chức chính trị-đội hậu bị của Đảng Cộng sản Liên Xô; dần phát triển thành hiệp hội của các doanh nghiệp và sớm bị suy thoái, chuyển hóa về tư tưởng chính trị, tiếp đó chính thức “biến mất” khỏi vũ đài chính trị của đất nước. Đội thiếu niên và nhi đồng cũng cùng chung số phận; thanh thiếu niên bị mất phương hướng, “phi chính trị hóa” theo đúng kịch bản và âm mưu của các thế lực thù địch.
          Trước, trong và sau Đại hội XII của Đảng, cũng như cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV và HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021; trước những diễn biến phức tạp trên Biển Đông, sự cố ô nhiễm môi trường ở địa bàn ven biển miền Trung…, do nhận thức có mặt còn hạn chế, lại bị các thế lực thù địch, phản động và đối tượng xấu dụ dỗ, lôi kéo, kích động, nên một số ít thanh niên đã tham gia vào các hoạt động gây mất an ninh trật tự…
          Trong xu thế toàn cầu hóa, cùng sự phát triển của công nghệ thông tin, tuyệt đại bộ phận thanh niên Việt Nam đều nhận thức rõ tình hình và những mưu đồ thâm hiểm của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Chúng đã và đang ra sức lôi kéo, tập hợp thanh niên cho những mưu đồ đen tối. Có thời điểm, một bộ phận quần chúng nhân dân không khỏi băn khoăn, lo lắng về “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” của thanh niên trước những sóng gió, biến động chính trị trên thế giới và khu vực, nhất là trước âm mưu, thủ đoạn chống phá quyết liệt, thâm hiểm của các thế lực thù địch, nhằm lôi kéo, xúi giục thanh niên chống đối chính trị, nhất là ở địa bàn nhạy cảm, phức tạp.
          Tình hình đó đòi hỏi cấp ủy, chính quyền và tổ chức Đoàn các cấp, nhất là ở cơ sở cần quan tâm đổi mới, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức công tác thanh niên, trọng tâm là: “Đổi mới nội dung, phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng, truyền thống, bồi đắp lý tưởng cách mạng, lòng yêu nước, xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh, ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật cho thế hệ trẻ” - như văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ. Các cấp ủy Ðảng, chính quyền cần tiếp tục chăm lo, quan tâm hơn nữa thanh niên và công tác thanh niên thông qua việc thực hiện tốt các chính sách của Ðảng, pháp luật của Nhà nước về thanh niên.
          Cùng với đó, cần thường xuyên coi trọng giáo dục ý thức cảnh giác cách mạng để thanh niên biết nhận diện, đề phòng và tránh xa những cám dỗ vật chất, văn hóa tầm thường, văn hóa ngoại lai xấu độc, biết tự bảo vệ mình, bảo vệ tổ chức Đoàn, không mắc vào bẫy “phi chính trị hóa” của các thế lực thù địch. Đặc biệt, cần thẳng thắn, kiên quyết đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc, âm mưu, thủ đoạn lôi kéo, xúi giục thanh niên chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN, góp phần cùng toàn dân, toàn quân bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, giữ gìn bản sắc, truyền thống dân tộc, tự tin hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
                                                TRẦN VĂN KIM


CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG CHIÊU TRÒ XUYÊN TẠC HÌNH ẢNH LỰC LƯỢNG VŨ TRANG

          Thời gian qua, trên một vài trang mạng xã hội xuất hiện một số thông tin, hình ảnh phản cảm được gán ghép cho là của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân Việt Nam trong chiến tranh giải phóng và trong hòa bình.

          Cần khẳng định ngay rằng đó là sự ngụy tạo trắng trợn của kẻ xấu nhằm xuyên tạc truyền thống tốt đẹp của lực lượng vũ trang Việt Nam, chia rẽ tình đoàn kết máu thịt giữa cán bộ, chiến sĩ LLVT với nhân dân.
          Một trong những âm mưu, thủ đoạn nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch là “phi chính trị hóa” LLVT, làm cho LLVT xa rời sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mất dần phương hướng chính trị, không xác định được mục tiêu chiến đấu, mục tiêu bảo vệ... Khi mà LLVT không còn là chỗ dựa thì ắt sẽ dẫn đến Đảng, chính quyền không còn được bảo vệ, mất vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành đất nước và chế độ sẽ sụp đổ.
          Toan tính của họ là thế và trên thực tế chúng ta không thể phủ nhận những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đã đạt được những kết quả nhất định. Bài học xương máu của Liên Xô và một số nước XHCN ở Đông Âu đã cho thấy rõ điều đó. Quân đội Liên Xô-một đội quân hùng mạnh nhất thế giới, với bề dày hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành đã bị vô hiệu hóa hoàn toàn trước những đòn thâm hiểm của mưu đồ “phi chính trị hóa”.
          Đối với cách mạng Việt Nam và LLVT Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Đặc biệt sau khi chúng ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, tư tưởng “chiến thắng không cần chiến tranh” đã được chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ráo riết thực hiện. “Phi chính trị hóa” LLVT nói chung và Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng luôn là một trong những mục tiêu nhất quán, xuyên suốt của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch. Để thực hiện “phi chính trị hóa” LLVT, thời gian qua, các thế lực thù địch đã không từ bất cứ một thủ đoạn nào... Thế nhưng, có thể nói những đòn thâm hiểm, những thủ đoạn tinh vi mà các thế lực thù địch áp dụng nhằm “phi chính trị hóa” LLVT nói chung và quân đội nói riêng đã bị vô hiệu hóa!
          Trải qua hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã khẳng định luôn là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Quân đội nhân dân Việt Nam thực sự là một quân đội của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH, vì hạnh phúc của nhân dân. Ngày nay, trong điều kiện, hoàn cảnh mới, LLVT nói chung, Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng tiếp tục được giáo dục, rèn luyện, huấn luyện, đầu tư vũ khí trang bị phát triển theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đặc biệt, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vững mạnh về chính trị, lấy đó làm cơ sở, nền tảng để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu. Do được xây dựng vững mạnh về mọi mặt nên Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, LLVT nói chung, Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. Cùng với toàn Đảng, toàn dân, Quân đội ta đã bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống;... Những thành quả, những chiến công mà Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã đạt được chứng tỏ những chiêu trò hòng “phi chính trị hóa” LLVT của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã bị vô hiệu hóa!
          Thế nhưng các thế lực thù địch không dễ từ bỏ âm mưu chống phá Việt Nam. Khi mà “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân và Công an nhân dân không thực hiện được, chúng lại giở chiêu bài nói xấu, bôi nhọ hình ảnh, hạ thấp uy tín. Để thực hiện chiêu trò này, một mặt chúng đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, bóp méo những truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, bôi nhọ hình ảnh, phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ. Mặt khác, chúng tán phát tài liệu, tung tin đồn nhảm, gán ghép, ngụy tạo hình ảnh để vu cáo, nói xấu cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân và Công an nhân dân...
          Cần phải nói rõ rằng hành vi lợi dụng các diễn đàn, mạng xã hội để tung ra những thông tin, hình ảnh nhằm mục đích bôi nhọ danh dự, uy tín Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là hành vi vi phạm pháp luật. Đây là một loại tội phạm không gian ảo hết sức nguy hiểm, vi phạm pháp luật Việt Nam. Mục đích của chiêu trò này không gì khác là nhằm giảm sút niềm tin của nhân dân vào Quân đội và Công an; chia rẽ khối đại đoàn kết, tạo sự hoài nghi, ngờ vực trong xã hội, đặc biệt là chia rẽ mối quan hệ đoàn kết giữa Quân đội nhân dân và Công an với nhân dân... Cùng với đó, xuyên tạc truyền thống cũng là cách để họ đánh vào tư tưởng hòng làm giảm sút tinh thần, sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân... Những chiêu trò ấy xét cho đến cùng đều nhằm phục vụ cho mưu đồ “phi chính trị hóa” LLVT nói chung và Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng mà các thế lực thù địch đang tiến hành.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần phải cảnh giác, tẩy chay những thông tin độc hại, không tiếp tay cho kẻ xấu lan truyền những thông tin ảo. Nếu ai đó nhẹ dạ tin vào những tài liệu, hình ảnh ngụy tạo ấy là đã mắc mưu kẻ xấu, trúng kế của các thế lực thù địch. Để vô hiệu hóa chiêu trò này, mỗi chúng ta cần nâng cao khả năng đề kháng, không mơ hồ, chủ quan, mất cảnh giác, cần hết sức tỉnh táo để nhận rõ tính ngụy tạo, xuyên tạc của những tài liệu, hình ảnh đó... Cách tốt nhất để giúp nhân dân và cán bộ, chiến sĩ LLVT tỉnh táo, “miễn dịch” và nhận diện rõ sự thâm hiểm đằng sau những chiêu trò ấy là phải thường xuyên tuyên truyền, giáo dục, phổ biến, trang bị cho mọi người những kiến thức cần thiết. Nhận diện rõ, có kiến thức cũng là cách giúp chúng ta luôn chủ động, nhạy bén, tích cực tham gia đấu tranh, vạch trần tính chất phản khoa học, vô căn cứ trong những âm mưu, thủ đoạn thâm hiểm, ngày càng tinh vi của các thế lực thù địch. Cùng với đó thông qua công tác dân vận cần tạo môi trường thuận lợi để phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, phẩm chất người Công an cách mạng ngày càng tỏa sáng trong điều kiện mới. Thông qua những nghĩa cử, việc làm tốt đẹp, đem lại hiệu quả thiết thực để tăng cường, củng cố niềm tin của nhân dân vào Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.

                                                                   KIM NGỌC

ĐẢNG LÃNH ĐẠO QUÂN ĐỘI LÀ TẤT YẾU

                 Lịch sử xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam luôn gắn liền với sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”. Đảng lãnh đạo Quân đội là vấn đề nguyên tắc và đã được thực tế kiểm nghiệm, không ai có thể phủ nhận được.
          Thế nhưng, hiện nay, các thế lực thù địch với dã tâm chống phá đến cùng cách mạng Việt Nam nên đang ra sức thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, bằng nhiều hình thức, thủ đoạn tinh vi, thâm độc. Đặc biệt, sự chống phá đó của họ càng quyết liệt hơn. Trong đó, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội là một trọng điểm của “chiến dịch” chống phá toàn diện mà họ tiến hành. Hình thức và thủ đoạn chống phá rất đa dạng, xảo quệt, thường là lợi dụng những khuyết điểm của một số cán bộ, đảng viên để xuyên tạc, bôi nhọ, nói xấu Đảng; kích động, lôi kéo những người cơ hội, tiêu cực, bất mãn, suy thoái về tư tưởng chính trị đưa ra luận điệu, yêu sách đòi tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng và trung lập về chính trị. Họ rêu rao rằng: quân đội chỉ trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với tổ chức hay cá nhân nào. Thực ra luận điểm này ít có tác dụng, nhưng với chiêu bài “lặp đi lặp lại” vẫn có người nhẹ dạ, nao núng, lầm tưởng, thậm chí còn có một số ít người cho rằng: đó là ý kiến khách quan, nhằm mang lại lợi ích cho đất nước và nhân dân, mà không thấy hết âm mưu nguy hiểm, thâm độc của nó. Thực chất đây là âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, tiến tới xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, làm cho quân đội mất phương hướng về chính trị, xa rời mục tiêu lý tưởng chiến đấu, thủ tiêu sức mạnh chính trị - tinh thần, dẫn đến mất sức chiến đấu, phản bội lại lợi ích của quốc gia, dân tộc. Vì thế, việc nhận thức đúng đắn và đầy đủ rằng: Đảng lãnh đạo Quân đội là tất yếu khách quan, có tính quy luật trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam là rất quan trọng, đặc biệt trong tình hình hiện nay. Sự khẳng định đó có cơ sở lý luận, thực tiễn vững chắc.
          Trước hết, xuất phát từ thực tiễn lịch sử ra đời, hình thành, phát triển của Quân đội ta. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, giai cấp và nhà nước, chiến tranh và quân đội là những hiện tượng chính trị - xã hội mang tính lịch sử. Sự xuất hiện của chiến tranh và quân đội gắn chặt với sự xuất hiện của giai cấp và nhà nước. Từ bản chất giai cấp và quy luật đấu tranh giai cấp, sự xuất hiện của chiến tranh đã khẳng định sự ra đời của quân đội là tất yếu, phù hợp quy luật lịch sử. Bất cứ quân đội nào cũng đều do giai cấp thống trị xã hội đó tổ chức ra và là công cụ bạo lực vũ trang để bảo vệ lợi ích và địa vị thống trị của giai cấp ấy. Giai cấp thống trị xã hội bao giờ cũng nắm quân đội để thực hiện mục đích chính trị của giai cấp mình. Đây là vấn đề mang tính quy luật về sự lãnh đạo của giai cấp thống trị xã hội đối với quân đội do giai cấp đó tổ chức ra. Như vậy, không có bất cứ quân đội nào trung lập về chính trị, không bảo vệ lợi ích của giai cấp nào trong một chế độ xã hội nhất định.
          Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện. Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời có đặc thù là trước khi nhân dân ta giành được chính quyền, thành lập Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng trở thành nguyên tắc căn bản trong xây dựng quân đội, quyết định bản chất giai cấp, mục tiêu lý tưởng chiến đấu, sự trưởng thành, lớn mạnh và chiến thắng của Quân đội ta trong mọi thời kỳ cách mạng. Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội và sự trung thành tuyệt đối của Quân đội đối với Đảng là hai mặt thống nhất của một vấn đề; hai mặt đó có mối quan hệ biện chứng, không tách rời, được thực tiễn kiểm nghiệm trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta.
          Hai là, xuất phát từ bản chất chính trị của Quân đội và mối quan hệ của Quân đội với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Bản chất giai cấp, mục tiêu chiến đấu và chức năng, nhiệm vụ của Quân đội phụ thuộc vào bản chất giai cấp, mục đích chính trị của nhà nước tổ chức ra và nuôi dưỡng nó, không có quân đội trung lập về chính trị, quân đội đứng ngoài giai cấp và nhà nước. Chính trị quy định bản chất, chức năng, nhiệm vụ, các mối quan hệ cơ bản của quân đội với đảng, nhà nước và nhân dân. Trong xã hội có giai cấp, không bao giờ có quân đội đứng ngoài chính trị, không mang bản chất chính trị của giai cấp, nhà nước nào. Thực tiễn lịch sử nhân loại chứng minh rằng, sự nghiệp cách mạng và con đường phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc, bao giờ cũng do một lực lượng chính trị đại biểu cho lợi ích quốc gia, dân tộc dẫn dắt và lãnh đạo. Lực lượng chính trị lãnh đạo quốc gia, dân tộc ấy sẽ tổ chức, lãnh đạo quân đội, đảm bảo cho nó thực sự là công cụ bạo lực vũ trang của lực lượng chính trị đại biểu cho lợi ích quốc gia, dân tộc đang lãnh đạo, dẫn dắt dân tộc đó phát triển. Điều này cho thấy rõ tính chất phi lý, phản khoa học của cái gọi là “quân đội phi giai cấp”.
          Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo, dẫn dắt nhân dân Việt Nam đấu tranh giành độc lập dân tộc, mang lại quyền tự do, dân chủ, hòa bình, hạnh phúc cho nhân dân. Đảng là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Vì thế, lợi ích của Đảng, Nhà nước và Nhân dân là thống nhất. Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Nhân dân là một chỉnh thể thống nhất, trong đó Đảng giữ vai trò lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ đã tạo được sự thống nhất giữa quyền lực chính trị với quyền lực xã hội trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để Quân đội thực sự trung thành, phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc, Đảng ta luôn quan tâm chăm lo xây dựng Quân đội về chính trị, củng cố, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, chú trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu. Đồng thời, chăm lo xây dựng các mối quan hệ giữa Quân đội với Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
          Mối quan hệ giữa Đảng với Quân đội là mối quan hệ lãnh đạo và phục tùng, Đảng giữ vai trò lãnh đạo đối với Quân đội bằng một cơ chế đặc thù, bảo đảm cho Đảng thường xuyên giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt. Thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta đã khẳng định: sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định sự trưởng thành và chiến thắng vẻ vang của Quân đội; mối quan hệ giữa Đảng với Quân đội đã trở thành bản chất, truyền thống quý báu của Quân đội ta. Mọi âm mưu tách Quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng đều nhằm cô lập Đảng, làm cho Đảng mất đi lực lượng chính trị trung thành, tin cậy nhất, mất đi sức mạnh vật chất to lớn để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.
          Trong mối quan hệ giữa Quân đội với Nhà nước và Nhân dân, Quân đội là công cụ bạo lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, do Nhà nước quản lý, chăm sóc và nuôi dưỡng. Quân đội là công cụ bạo lực của Nhà nước thực chất cũng chính là công cụ bạo lực của Nhân dân; Quân đội bảo vệ Nhà nước xét đến cùng cũng chính là bảo vệ Nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, tất yếu phải lãnh đạo Quân đội. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta rất quan tâm xây dựng, củng cố và phát triển mối quan hệ giữa Quân đội với Nhân dân, coi đây là một trong những nguyên tắc hết sức quan trọng để làm cho quân đội kiểu mới khác hẳn về chất với các kiểu quân đội của giai cấp, nhà nước bóc lột trước đây.
          Ba là, xuất phát từ thực tiễn xây dựng, chiến đấu, trưởng thành và chiến thắng vẻ vang của Quân đội nhân dân Việt Nam trong suốt 71 năm qua. Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức và lãnh đạo Quân đội nhân dân Việt Nam; Quân đội phục tùng sự lãnh đạo của Đảng là hai mệnh đề song hành ngay từ khi mới thành lập Quân đội cho đến nay, đã tồn tại trong suốt quá trình xây dựng, trưởng thành và chiến thắng của Quân đội ta. Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân khi mới ra đời đã là đội quân mang bản chất của giai cấp công nhân Việt Nam, gánh vác sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong Báo cáo tại Hội nghị lần thứ Ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II), tháng 4 năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Quân đội ta là quân đội “quyết chiến quyết thắng”, “có lập trường vững chắc, lập trường quân đội của nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Tư tưởng đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy bản chất giai cấp của Quân đội ta là bản chất giai cấp công nhân và Quân đội là của nhân dân, do Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo.
          Thực tiễn xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, Quân đội ta đã thường xuyên quán triệt, thấm nhuần sâu sắc mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Quân đội ta luôn lấy mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng, của dân tộc làm mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của mình. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội luôn nhận rõ kẻ thù của nhân dân, của dân tộc; xác định đúng đối tượng tác chiến; vận dụng, phát triển sáng tạo nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc, luôn kề vai, sát cánh, đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc - sức mạnh vô cùng to lớn để chiến đấu và giành những chiến thắng vĩ đại, đánh bại những tên đế quốc đầu sỏ, có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn nhiều lần. Nhờ có sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta đã xây dựng được sức mạnh chiến đấu vô địch, trở thành một trong những quân đội bách chiến, bách thắng ở thế kỷ XX.
          Thực tiễn đó là không thể phủ nhận. Hơn thế còn là minh chứng thuyết phục nhất để bác bỏ mọi luận điểm xuyên tạc, kích đồng đòi tách Quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng. Những luận điểm phi lý này của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị chắc chắn sẽ chết yểu cũng như mọi mưu đồ chống phá cách mạng Việt Nam, đi ngược lại quy luật sẽ tất yếu thất bại.
          Đại tá, PGS, TS. Đỗ Mạnh Hòa, Viện Khoa học xã hội nhân văn Quân sự - Bộ Quốc phòng

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG TÌNH HÌNH MỚI

          Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm tới; trong đó, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa là một nội dung quan trọng. Quán triệt sâu sắc tinh thần đó sẽ là cơ sở quan trọng để xác định phương hướng, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, bảo vệ Tổ quốc trong thời gian tới.
          Kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc và thực tiễn bảo vệ Tổ quốc qua 30 năm đổi mới; đồng thời, tiếp thu tinh hoa trí tuệ nhân loại, Đại hội XII của Đảng kiên định và xác định những vấn đề cơ bản về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, thể hiện sâu sắc tư duy mới về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa của Đảng ta.
          1. Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên” của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đại hội XII của Đảng xác định: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng ta, tạo cơ sở quan trọng cho Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị, toàn dân và toàn quân ta xác định và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh theo chức năng, nhiệm vụ của mình nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Khẳng định củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ “trọng yếu, thường xuyên”, Đảng ta nhấn mạnh nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, xây dựng đất nước. Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ phát triển kinh tế, nhưng không coi nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là thứ yếu. Bởi, củng cố quốc phòng, an ninh là cơ sở trực tiếp tạo thuận lợi cho nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế; ngược lại, kinh tế phát triển, đất nước mạnh lên sẽ là “phương thức hữu hiệu” để bảo vệ Tổ quốc. Đây là quan điểm lý luận cơ bản, chi phối, quy định toàn bộ các nội dung, quan điểm của Đảng về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
          2. Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là toàn diện, cả phương diện tự nhiên - lịch sử và chính trị - xã hội trong chỉnh thể thống nhất. Đại hội XII của Đảng xác định: “Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”. Trong tình hình mới, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc phải bảo đảm được lợi ích quốc gia, dân tộc khi nước ta tham gia hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, tạo thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; giữ vững môi trường ổn định, hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho các nước trên thế giới hợp tác với Việt Nam. Các nội dung bảo vệ Tổ quốc quan hệ chặt chẽ biện chứng với nhau trong chỉnh thể thống nhất; bảo vệ lĩnh vực này cũng có nghĩa là góp phần bảo vệ lĩnh vực khác và ngược lại, không xem nhẹ hoặc tuyệt đối hóa một lĩnh vực nào.
          3. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp; củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lực lượng bảo vệ Tổ quốc là toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Đó là sức mạnh tổng hợp của các yếu tố: chính trị, quân sự, kinh tế, khoa học và công nghệ, văn hóa, đối ngoại; biểu hiện sức mạnh vật chất, tinh thần của toàn bộ nhân dân trong nước và kiều bào Việt Nam định cư ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc. Đó còn là sự kết hợp chặt chẽ sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Để phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng vũ trang, Đảng ta xác định: tập trung xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng quan trọng; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh về chính trị, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; phải “Tích cực, chủ động chuẩn bị lực lượng đủ mạnh và các kế hoạch, phương án tác chiến cụ thể, khoa học, sẵn sàng bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của Tổ quốc trong mọi tình huống”. Quan điểm sức mạnh tổng hợp và lực lượng toàn diện bảo vệ Tổ quốc, phản ánh sâu sắc tính chất toàn dân, toàn diện của nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới được Đảng ta tiếp tục khẳng định với nội hàm sâu, rộng thêm.
          4. Quốc phòng và an ninh quan hệ chặt chẽ, thống nhất trong mục tiêu bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Theo đó, quốc phòng và an ninh đều hướng vào mục tiêu chung là bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; được thể hiện trong sự kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng lực lượng và thế trận của nền quốc phòng toàn dân với xây dựng lực lượng và thế trận của nền an ninh nhân dân. Đại hội XII nhấn mạnh: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc”. Mối quan hệ biện chứng đó đặt trong tổng thể thống nhất và gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Mối quan hệ đó phản ánh yêu cầu, nhiệm vụ cơ bản của hai lĩnh vực hoạt động đặc thù nhằm mục tiêu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Xây dựng thế trận và lực lượng của quốc phòng và an ninh phải đảm bảo toàn diện, đồng bộ, quan hệ chặt chẽ, có chất lượng và hiệu quả cao trên phạm vi toàn quốc, cũng như trong từng địa bàn, từng lĩnh vực cụ thể.
          5. Có kế sách phòng, chống các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, khắc phục các yếu tố tác động tiêu cực đến sự nghiệp củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới. Đây là kinh nghiệm quý, một phương thức giữ nước đặc sắc của dân tộc, được Đảng ta kế thừa và phát huy đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới. Theo đó, quốc phòng và an ninh phải có đủ sức mạnh để “ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”, để đất nước “không bị động, bất ngờ”; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định và tạo điều kiện thuận lợi cho bạn bè quốc tế trong hợp tác với Việt Nam. Đại hội XII chỉ rõ: phải “Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, đẩy lùi các loại tội phạm và tệ nạn xã hội; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước”.
          6. Quán triệt và xử lý tốt mối quan hệ giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thực tiễn. Đây là quy luật dựng nước đi đôi với giữ nước của dân tộc. Mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới có tầm quan trọng đặc biệt, là quan hệ cơ bản, chi phối, thẩm thấu vào các mối quan hệ khác; được giải quyết trong sự gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ: phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng và an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên. Trong đó, xây dựng, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia phục vụ cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và phát triển văn hóa. Trong xây dựng Đảng, phải đạt đến mục đích là giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ quốc phòng và an ninh. Trong phát triển văn hóa phải chú ý gia tăng sức mạnh quốc phòng, an ninh, phục vụ cho xây dựng và phát huy các tiềm lực quốc phòng, an ninh, nhất là tiềm lực chính trị tinh thần. Mối quan hệ tác động lẫn nhau đó cần phải được nhận thức thấu đáo và xử lý đúng trong thực tiễn trên tất cả các lĩnh vực. Phải “kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh”. Việc giải quyết mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc phải được thể hiện cụ thể ở sự kết hợp chặt chẽ giữa các lĩnh vực trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển; trong đó, chú trọng phát triển kinh tế, gắn với bảo đảm quốc phòng - an ninh ở các địa bàn trọng yếu, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo.
          7. Sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, phải tiếp tục giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”. Trong nhận thức lý luận cũng như trong tổ chức thực tiễn, Đảng ta luôn trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát tình hình, yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng để tổ chức, lãnh đạo và chỉ đạo sự nghiệp củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước là cơ sở chắc chắn nhất bảo đảm cho Tổ quốc được bảo vệ vững chắc trong bối cảnh có nhiều biến động phức tạp. Hiện nay, trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, với âm mưu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang hòng làm cho Quân đội và Công an mất phương hướng chính trị, xa rời mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, thì vấn đề tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với Quân đội, Công an và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc càng trở nên quan trọng, cấp bách hơn. Đây không chỉ là sự trung thành với lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của giai cấp công nhân, mà còn là đòi hỏi bức thiết từ tình hình, nhiệm vụ của cách mạng nước ta thời kỳ mới. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trên, vấn đề then chốt là phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ.
Quan điểm về bảo vệ Tổ quốc được Đảng ta khẳng định trong Đại hội XII là sự trung thành, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới và từ tư duy, phát triển lý luận đến tổng kết thực tiễn của Đảng, nhất là 30 năm đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc vừa qua. Đây là cơ sở, nền tảng quan trọng để Đảng, Nhà nước và nhân dân ta triển khai, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc mà Đại hội XII của Đảng đã đề ra.
                   Trung tướng, PGS, TS. NGUYỄN ĐÌNH MINH, Giám đốc Học viện Chính trị